08 tháng 9 2014

Luận bàn về chữa trị thân bệnh và tâm bệnh từ Thiền Phật ( bài thứ nhất )


   Con người cũng như mọi sinh vật tự nhiên đều có khả năng tự bảo vệ, chống lại sự xâm nhập của bất kỳ vật lạ nào hoặc sự mất cân bằng nào phát sinh nhằm bảo toàn tính toàn vẹn ( cân bằng ) của mình. Đây là phương pháp giúp cơ thể huy động khả năng tự điều chỉnh, cân bằng, nó không giải thích được bằng những logic khoa học thông thường, thậm chí cả những học thuyết cổ xưa như âm dương, ngũ hành, tạng tượng, thiên nhân hợp nhất ...
Cơ thể con người là một bộ máy tinh vi nhất mà thế giới tự nhiên tạo ra. Từ những suy nghĩ sơ đẳng thời xa xưa cho đến những nghiên cứu tinh vi, hiện đại nhất đều biết rằng tất cả các mầm bệnh, vi khuẩn, vi rút ... luôn tồn tại trong cơ thể đang sống cũng như môi trường xung quanh chúng ta. Trong mớ hỗn lộn vi rút, vi khuẩn, mầm bệnh đó thì có những vi rút, vi khuẩn có ích và cũng có loại có hại cho sự sống, cơ thể sống của con người. Mặt khác chúng ta cũng đều biết là cơ thể con người có những khả năng tự chống lại bệnh tật, chống lại sự xâm phạm của các loại mầm bệnh, vi rút, vi khuẩn. Đơn thuần, cơ thể chúng ta là như nhau, vi rút, vi khuẩn và mầm bệnh luôn bên cạnh rình dập để gây bệnh, rồi thấy mỗi người lại mắc nhiễm những căn bệnh khác nhau, vào những thời điểm khác nhau và với mức độ nặng nhẹ rất khác nhau ... Phải chăng do khả năng chống cự lại sự xâm nhập của mầm bệnh, tác nhân gây bệnh ở mỗi người và ở mỗi thời điểm là khác nhau ? Vậy làm cách nào để ta huy động được khả năng tự chống lại bệnh tật, chống lại sự xâm phạm của tác nhân gây bệnh này của cơ thể một cách hiệu quả nhất ?
Theo đông y học cổ truyền thì nền tảng và nguyên lý vận hành của mọi sự vật hiện tượng dựa theo thuyết âm dương, cơ thể chúng ta với môi trường ( trong và ngoài cơ thể ) cũng không là ngoại lệ. Và theo thuyết âm dương thì khi mất cân bằng âm dương sẽ sinh biến, giống như cơ thể ta sẽ sinh bệnh vậy. Từ nền tảng của thuyết âm dương để triển khai chi tiết và quy nạp sự vật, hiện tương thì người xưa đưa ra thuyết ngũ hành với năm hành là : mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ. Rồi từ hai học thuyết trên các danh y đã nghiên cứu và thiết lập ra học thuyết tạng tượng ( quy nạp các bộ phận, cấu tạo cơ thể theo thuyết ngũ hành và âm dương ), học thuyết thiên nhân hợp nhất ( điều hoà cơ thể với tự nhiên để dưỡng sinh, để sống hải hoà với môi trường quanh mình ). Khi cơ thể mất cân bằng ( sinh bệnh ), các y gia đã phân tích xem sự mất cân bằng ở đây như thế nào, ví dụ như Dương thắng, âm thắng, dương hư, âm hư, dương thịnh, âm thịnh, thuỷ suy hoả vượng, can mộc vượng quá khắc tỳ thổ, hay tỳ thổ hư sinh phế kim bệnh, thận thủy giao tâm hỏa ( phạm trù chính tà, hư tà, tặc tà, vi tà, thực tà )...vv... Từ đó đề ra bát pháp ( 8 phương pháp trị bệnh ) là: hãn, thanh, hạ, thổ, tiêu, hòa, ôn, bổ. Phưong tiện, cách làm và dụng cụ cho các pháp trị bệnh này là các vị thuốc đông dược, châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, chôn chỉ, kéo giãn, giác hơi, đánh gió, xông ... Nói ngắn gọn lại là cần có sự tác động một cách khoa học từ bên ngoài đến cơ thể chúng ta để lấy lại cân bằng khi cơ thể chúng ta đang mất cân bằng ( bị mắc bệnh ). Về tây y thì nguyên tắc cũng vậy, nhưng mang tính chữa trị các triệu chứng cụ thể hơn là tổng thể cân bằng của cơ thể như đông y.
Tôi cứ nghĩ và định hướng trong thâm tâm rằng cơ thể chúng ta có khả năng phòng vệ chống lại sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh, nhưng cũng có lúc nó thất bại trước tác nhân gây bệnh. Tất nhiên cơ thể chúng ta có cấu tạo như nhau nhưng môi trường ta sống tác động đến chúng ta khác nhau ( nói đến môi trường là bao gồm cả nội nhân, ngoại nhân, bất nội ngoại nhân, ...) nên bệnh tật mỗi người có khác nhau. Chung quy lại thì tất cả đều do môi trường xung quanh ta, trong ta xâm phạm, nó phá vỡ thế cân bằng của cơ thể dẫn tới bệnh tật, vậy làm cách nào để huy động khả năng tự phòng và chống lại bệnh tật của cơ thể mình ?
Tôi có xem tập sách viết về hệ miễn dịch và cách chống lại bệnh tật, ngoại nhân xâm phạm vào cơ thể của tác gỉa Đái Duy Ban và biết được rằng tự cơ thể chúng ta có rất nhiều cách để chống lại sự xâm phạm của các mầm bệnh ( nói chung cho các nguyên nhân sinh bệnh trong cơ thể ) ví dụ như: tống đẩy, tiêu hoá vi khuẩn, đồng hoá dị nguyên, kháng nguyên.vv ... Và tôi nghĩ rằng sẽ còn nhiều cơ chế, khả năng tự chống lại và tự chữa bệnh của cơ thể mà con người chúng ta chưa nghiên cứu ra, đặc biệt về các bệnh liên quan đến tâm bệnh.
Từ luận giải cơ chế tạo nghiệp ( Tâm - ý - thân ) dựa trên nền tảng thực hành thiền Tứ Niệm Xứ cùng sự dẫn dắt của duyên khởi mà Phật Pháp đem lại, tôi nhận ra rằng mọi bệnh tật, khổ đau, sung sướng, vui buồn ... liên quan đến thân thể, tâm hồn đều trong vòng nghiệp của mỗi người. Và cái mầm bệnh hay căn bệnh của mỗi người cũng tuân theo quy luật của vòng tạo nghiệp ( gọi là nghiệp bệnh ). Như đã nói ở phần đầu thì trong cơ thể ta, môi trường xung quanh ta luôn tồn tại tất cả các mầm bệnh và các mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể ta rồi phát triển thành bệnh sau đó nó có thể huỷ hoại và chấm dứt sự tồn tại của cơ thể ta, đó là chu trình của nghiệp bệnh. Vậy làm thế nào để chấm dứt được chu trình tạo nghiệp bệnh này ?
Thử ngẫm lại mà xem, mỗi chúng ta khi cảm thấy cơ thể không bình thường ( có thể là đau, cảm giác khó chịu ở một chỗ nào đó, hoặc các sinh hoạt bình thường bị thay đổi do ảnh hưởng vì sức khoẻ, cơ thể có những biến đổi bất thường  ... ) thì chúng ta có chú ý đến một lát rồi bao công việc, sự việc khác cuốn hút chúng ta phải theo hoặc bắt buộc phải theo và quên đi hay bỏ qua những cảnh báo của cơ thể ( cũng có thể coi là tiếng kêu cứu của cơ thể ). Dần dần mức độ cảnh báo của cơ thể tăng lên, ta đi khám bệnh và ta biết là mình bị bệnh rồi bắt đầu chữa trị. Nếu gặp thầy gặp thuốc ta khỏi được còn không may thì chúng ta ra đi ... vậy là đời ta chấm dứt đồng nghĩa với nghiệp của bệnh đã hoàn thành, một kiếp khác giành cho chúng ta ... Trong chu trình của nghiệp bệnh này chúng ta có thể nhận thấy cơ chế, cách thức của nghiệp bệnh đã xảy ra như thế nào không ? Nguyên lý nào để chúng ta ngăn chặn, cắt đứt vòng tạo nghiệp của bệnh này ? Cách thức thực hiện để đạt được mong muốn này sẽ như thế nào ?.

Những câu hỏi này cứ ám ảnh tôi khi tôi nghiên cứu về Thiền Phật ( thiền quán hay thiền Tứ Niệm Xứ ). Từ những cảm nhận được dẫn dắt bởi ánh sánh của Phật pháp tôi đã nhận thấy con đường đi của Nghiệp ( nói chung ) là từ Tâm qua quá trình tạo tác Ý rồi Ý điều khiển Thân và Thân hành động, và tôi đã viết luận giải về Thân – Tâm – Ý ở các phần trước trong blog này ( mời xem ở đây: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2014/02/than-tam-y.html   và http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2014/02/than-tam-y-bai-thu-hai.html ). Cũng từ sự soi sáng của Phật Pháp với câu kinh truyền lưu rằng: "Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạo và chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ ", trong tôi lại dấy lên những câu hỏi cần được luận giải là điểm bắt đầu để nhận ra của con đường là từ đâu ? nguyên lý và cách thức thực hiện nó như thế nào ?
Kết hợp khi thiền Tứ Niệm Xứ ở mức độ sơ khai tôi đã nhận thấy có hai yếu tố tác động lên chúng ta và tạo ra hai vòng nghiệp luôn có trong mỗi con người chúng ta, đây  như là điểm đầu của nhận thức về con đường Phật đã nói. 
- Yếu tố thứ nhất là: Tâm dẫn dắt Ý ( Tâm tạo tác ý - ý khiển Thân - Thân hành động ). Gọi đây là vòng tạo nghiệp thứ nhất.
- Yếu tố thứ hai là:  Môi trường quanh ta tác động lên Thân ( Tác nhân bên ngoài xâm phạm vào Thân - Thân kêu cứu qua Ý - Ý tác động lên Tâm - Tâm quay lại tác Ý - Ý khiển Thân - Thân hành động ). Gọi đây là vòng tạo nghiệp thứ hai.
Trong cả hai vòng  tạo nghiệp TÂM – Ý – THÂN trên thì Ý là mắt xích quan trọng nhất, tất cả chu trình của nghiệp đều phải đi qua Ý. Ý là cái của tự bản thân chúng ta, cái ý nghĩ, ý chí của chúng ta, là cái được rèn luyện được bồi đắp từ thực tế cuộc sống, từ trải nghiệm cuộc sống, từ những bài học truyền lại của loài người và có thể thay đổi theo ý chí của bản thân mỗi người. Vòng tạo nghiệp này sẽ thay đổi khi Ý thay đổi, đây là điểm mấu chốt để thực hiện thay đổi nghiệp  ( kể cả hai vòng nghiệp ) và cũng là điểm mấu chốt trong nguyên lý chữa trị Tâm bệnh và Thân bệnh.

05 tháng 9 2014

Chữa chứng ho ngứa họng bằng Thiền Tứ Niệm Xứ ( thiền quán )

P
   
   Chúng ta bị ho và rất ngứa họng, có người thỉnh thoảng lại bị ho kiểu ngứa họng. Thường gọi là viêm họng mà nguyên nhân gây ra thì rất nhiều. Phương pháp tôi trình bày đây áp dụng cho các loại ho có ngứa họng. Trong quá trình tự trị bệnh này mọi người sẽ tự nhận biết khi nào nó xuất hiện và giải pháp tiêu trừ mà không cần dùng thuốc, không cần một tác động nào ngoài ý chí, ý nghĩ của chính mình.
      Nội dung thực hiện như sau:  Khi thấy cảm giác bị ngứa họng, bạn bắt đầu dừng mọi việc lại, trước hết chúng ta chuyển sang tư thế thoải mái nhất, có thể là ngồi thiền, nằm nghiêng, tản bộ, đang ngồi ở ghế làm việc... và tập trung quán sát hơi thở của mình, khi hít vào ta đọc thầm trong đầu ( niệm ) là phồng, khi thở ra ta niệm là xẹp, thấy ngứa họng ta niệm là ngứa họng, ngứa họng ... và cố không ho ( kiểu như nhịn ho ). Cứ niệm như vậy thì cơn ngứa sẽ tăng lên rất nhanh, toàn bộ cơ thể  sẽ phản ứng rất mạnh, nước mắt trào ra, hai tai có thể ù đặc, và thậm chí có thể nôn, oẹ. Các tuyến nước bọt có thể tiết ra rất nhiều, ta có thể nuốt nước bọt vào và niệm là nuốt nước bọt, nuốt nước bọt, .... Đến khi tự bị ho hắt ra rất mạnh hoặc nôn ra, nước mắt nước mũi chảy ra thì ta dừng lại để rửa mặt, xúc miệng...  Tiếp đó ta quay lại thiền như lúc đầu, ngay lập tức thấy họng ngứa ngay, sau khoảng vài lần liên tiếp thực hiện như vậy thì ta thấy thở ra hít vào sẽ không ngứa nữa ... và sẽ không bị ngứa và ho trong khoảng mấy tiếng, khi thấy hiện tượng ngứa họng xuất hiện thì lại lập tức thiền như trên. Khoảng vài ngày sẽ khỏi ( nếu trước đó đã bị ho dài ngày ) và từ sau sẽ ngăn chặn ngay cơn ngứa họng đầu tiên, giúp chúng ta không bị mắc chứng ho viêm họng. 

   Đây là phương pháp chữa bệnh dựa trên nền tảng của Thiền Tứ Niệm Xứ và được tự bản thân tôi thực nghiệm, kiểm nghiệm, mọi người nếu mắc chứng bệnh trên thử thực hiện và phản hồi các tác động cũng như kết quả qua blog này để chúng ta cùng nhau lập ra được phương pháp chữa căn bệnh này một cách hữu hiệu nhất cho mỗi người. Sự chia sẻ của mọi người khi thực hiện phương pháp này là niềm vui rất lớn đối với tôi !


04 tháng 9 2014

Chống mệt mỏi, đau người, đau đầu do mất ngủ và ngồi lâu trên tàu hỏa bằng Thiền quán


Bạn đi tàu để thực hiện một công việc nào đó hay đi du lịch xa … Hẳn bạn cũng như mọi người đều rất ngại về vấn đề giấc ngủ và mệt mỏi cơ thể khi phải ngồi trên một con tàu lắc lư, gầm rú trong thời gian vài tiếng cho đến vài ngày. 




Mấy người bạn và bà con trong gia đình tôi thường nói đùa rằng lúc đi tàu thì mọi người vật vã như cá vật đẻ. 








Tôi nhận thấy mình nên áp dụng thiền tứ niệm xứ xem sao …
   Mấy ngày nghỉ lễ quốc khánh 2/9/2014 đại gia đình tôi tổ chức đi Sapa du ngoạn, và phương tiện đi lại được chọn là tàu hỏa sau khi đã phân tích rất nhiều khía cạnh như an toàn giao thông, tiết kiệm chi phí, lượng người tham gia, mức độ ảnh hưởng tới sức khỏe. Thực chất thì nhược điểm chính của đi tàu là ảnh hưởng tới sức khỏe do thời gian đi lâu và tư thế trên tàu khi đi ( ngồi ghế cứng, ngồi ghế mềm, giường nằm ). Tùy theo nhu cầu mà mọi người trong gia đình lựa chọn, do chủ yếu là những người trẻ, trung niên nên mọi người chọn ghế ngồi cứng để tiết kiệm chi phí giành cho những chi tiêu khác của chuyến đi, một số người có tuổi và em nhỏ được bố trí giường nằm.

Vậy là mọi người đã xác định là mệt mỏi trong một đêm ở tư thế ngồi, nằm co ro, vật vã trong tiếng gầm rú và rung lắc của đoàn tàu. Đúng là như cá vật đẻ, tôi thấy mọi người nằm, ngổi nghiêng ngả, chui cả xuống gầm ghế,…sáng sau kêu đau mỏi nhừ người. Còn tôi thì bắt đầu thực hiện thiền tứ niệm xứ quán niêm hơi thở. Trước hết là chọn tư thế ngồi thật thoải mái ở vị trí ghế của mình ( lưng thẳng, hai chân cân đối, gập đầu gối cân bằng hai bên, đặt hai tay tư thế thõng xuống tự nhiên, hai bàn tay đặt khu vực đầu gối hoặc ngửa lên và chồng lên nhau giữa hai đùi ), sau đó thực hiện thiền quán niệm hơi thở và tứ niệm xứ. Các hình ảnh, suy nghĩ, âm thanh, hơi thở, sự đau mỏi của cơ thể, đặc biệt là sự rung lắc của tàu liên tục tấn công vào tâm cần được quán niệm ( thầm đọc lên trong đầu ), cứ như vậy đến một lúc tâm ta rơi vào tĩnh lặng ( những tác động trên được ta niệm song hành với việc nó tác động lên tâm ). Những lúc này cảm giác như ta đang ngủ nhưng tâm rất tỉnh táo, thi thoảng có cơn ngủ gật ập đến ( rất hiếm ). Khoảng vài tiếng đồng hồ ta suy nghĩ là cần phải lấy lại trạng thái bình thường để xoa bóp đôi chân thì tự cơ thể khiến ta tỉnh thức. Việc xoa bóp đôi chân và thay đổi tư thế giúp cơ thể  ta lấy lại cân bằng và tránh việc ứ tắc khí huyết gây đau mỏi. Xoa bóp vùng chân thực hiện theo nguyên tắc “ âm thăng dương giáng “ âm là phía trong và sau của chân, dương là phía ngoài và trước của chân, thăng là đưa lên, giáng là đưa xuống. Dùng bàn tay và các ngón tay xoa bóp vùng chân theo nguyên tắc trên khoảng 5-10 lần . Sau đó thực hiện động tác chải đầu từ trước về phía sau bằng các đầu ngón tay 5-10 lần. Đứng dậy vặn mình hoặc đi lại trên khoang tàu vài phút. Tiếp đó lại thực hiện thiền quán như trên cho đến khi hết buổi đêm. Sáng sau khi mọi người thức dậy, ai cũng kêu đau mỏi cơ thể, mệt mỏi, có người kêu đau đầu, tôi thì thấy cơ thể cũng như đầu óc mình tỉnh táo và khỏe mạnh bình thường như ngủ ở nhà vậy. Đấy là hôm đi lên Sapa, hôm về tôi cũng thực hiện như vậy và kết quả tương tự. Mọi người nằm, ngồi nghiêng ngả, ngủ gật ngặt ngẽo, rồi đau mỏi khắp người, thấy tôi chỉ ngồi im một tư thế mà hôm sau vẫn thấy bình thường nhưng không tin và thực hiện theo cách tôi nói. 
  Tự bản thân tôi thấy cách thiền này dễ thực hiện  rất hữu hiệu cho mọi người đi tàu xe trên nhưng chặng đường xa, giúp giữ gìn sức khỏe, ổn định tinh thần, vậy nên viết ra đây hầu mong giúp được ai đó khi gặp hoàn cảnh tương tự sẽ áp dụng, kết quả như thế nào xin phản hồi ý kiến qua trang blog này. 

30 tháng 6 2014

Mười bài thuốc cổ phương



BÀI  THUỐC

VỊ THUỐC

LIỀU LƯỢNG
(gram)

ỨNG DỤNG ĐIỀU TRỊ
MA HOÀNG THANG

Ma hoàng
12
Phát hãn giải biểu, khu phong tán hàn, tuyên thông phế khí.
Ngoại cảm phong hàn, sốt sợ lạnh, ngạt mũi, sổ mũi, ho, đau đầu, chân tay đau mỏi khó chịu, mạch phù khẩn, không có mồ hôi ( biểu thực )
VPQ mạn tính, HPQ mạn
Quế chí
8
Hạnh nhân
12
Cam thảo
4
QUẾ CHI THANG

Quế chi
12
Điều hòa dinh vệ, phát hãn giải biểu.
Ngoại cảm phong hàn, sốt sợ gió,ho khan, đau đầu, không khát, rêu lưới trắng, mạch phù hoãn hoặc phù nhược, có mồ hôi, (biểu hư )
CMPH kèm vai gáy cứng đau
Đau khớp không có sưng nóng đỏ đau.
Phụ nữ có thai bị ngén ( nôn nhiều )
Sinh khương
12
Bạch thược
12
Cam thảo
6
Đại táo
3q
TỨ QUÂN TỦ THANG

Đảng sâm
10
Ích khí kiện tỳ dưỡng vị
Tỳ vị khí hư, mặt trắng bệch, tiếng nói nhỏ yếu, chân tay yếu, ăn ít, ỉa sệt, lưỡi nhợt, mạch tế hoãn
Bạch truật
9
Phục linh
9
Cam thảo
6
TỨ VẬT THANG

Xuyên khung
8
Bổ huyết hoạt huyết
Kinh nguyệt không điều hòa, đau bụng vùng rốn, rong kinh, băng kinh, huyết hà thành cục lúc đau lúc không, động thai ra huyết. Sau khi đẻ huyết hôi ko ra kết lại khiến bụng dưới đau, phát sốt
Thiếu máu, dị ứng nổi ban
Đương quy
10
Thục địa
12
Bạch thược
12
BÁT TRÂN  THANG
Xuyên khung
4
Bổ khí huyết
Trị hư suy khí huyết, sắc mặt bệch hoặc màu vàng rơm, đầu váng, chân tay mỏi yếu, khí đoản, tim hồi hộp, ăn ít, lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế hư, tế nhược, vô lực
Đương quy
4
Thục địa
4
Bạch thược
4
Đảng sâm
4
Bạch truật
4
Phục linh
4
Cam thảo
2
LỤC VỊ THANG
Thục địa
32
Tư âm bổ can thận ( bổ thủy )
Trị can thận âm hư. Lưng đau, gối mỏi, đầu váng, chóng mặt, ù tai, mồ hôi trộm, di tinh. Hoặc âm hư hỏa bôc gây cốt chưng, triều nhiệt, lòng bàn tay, chân nóng. Tiêu khát, mồm họng khô, răng đau, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.
Sơn thù du
16
Sơn dược
16
Trạch tả
12
Đan bì
12
Bạch linh
12
BÁT VỊ THANG
Thục địa
32
Ôn bổ thận dương ( bổ hỏa )
Thận dương bất túc. Lưng đau, gối mỏi, tiểu không lợi. Thường lạnh nửa người dưới, bụng dưới đau, lưới nhạt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế
Sơn thù du
16
Sơn dược
16
Trạch tả
12
Đan bì
12
Bạch linh
12
Nhục quế
4
Phụ tử chế
2
THẬP TOÀN ĐẠI BỔ
Xuyên khung
4
Bổ khí bổ huyết bổ dương ( dùng cho người thiếu máu ko phải âm hư )
Trị hư suy khí, huyết, âm, dương.Sắc mặt bệch hoặc màu vàng rơm, đầu váng, chân tay mỏi yếu, khí đoản, tim hồi hộp, ăn ít, lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế hư, di tinh ở nam giới, băng lậu ở phụ nữ,
Đương quy
4
Thục địa
4
Bạch thược
4
Đảng sâm
4
Bạch truật
4
Phục linh
4
Cam thảo
2
Hoàng kỳ
4
Nhục quế
2
QUY TỲ THANG
Viễn chí
4
Ích khí bổ huyết kiện tỳ dưỡng tâm.
Tâm tỳ lưỡng hư. Suy nghĩ quá độ làm tổn thương tâm tỳ, khí huyết bất túc. Tim hồi hộp, hay quên, mất ngủ, mồ hôi trộm, ăn ít, mệt mỏi, mặt vàng sạm, lưới nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế hoãn.
Tỳ không nhiếp huyết: ỉa máu, rong băng kinh, kinh trước kỳ lượng nhiều sắc nhợt, đái són hoặc khí hư bạch đới.
Toan táo nhân
4
Phục thần
4
Long nhãn
4
Nhân sâm
2
Bạch truật
4
Hoàng kỳ
4
Cam thảo
1
Đương quy
4
Mộc hương
2
ĐỘC HOẠT TANG KÝ SINH THANG
Đỗ trọng
8
Khu phong, trừ thấp, bổ can thận.
Chứng tý lâu ngày, can thận đều hư suy, khí huyết bất túc. Lưng đau, gối mỏi, khớp co duỗi khó khăn.
Độc hoạt
12
Tang ký sinh
8
Tần giao
8
Tế tân
8
Ngưu tất
8
Quế chi
8
Xuyên khung
8
Đương quy
8
Thục địa
8
Bạch thược
8
Cam thảo
8
Nhân sâm
8
Phục linh
8
Phòng phong
8