Hiển thị các bài đăng có nhãn PHƯƠNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn PHƯƠNG. Hiển thị tất cả bài đăng

19 tháng 8 2021

TIỂU SÀI HỒ THANG



Xuất xứ:             Thương hàn luận

Thành phần:

Sài hồ:                12g

Nhân sâm:           9g

Sinh khương:      9g

Bán hạ:               9g

Hoàng cầm:        9g

Chích cam thảo: 9g

Đại táo:              4 quả

Cách dùng:        Sắc nước uống

Công hiệu:        Hòa giải thiếu dương

Chủ trị:             Bệnh khi tà khi xâm nhập vào kinh thiếu dương ( sau một số ngày tà khí xâm nhập qua phần biểu và do không chữa trị kịp thời, đúng cách chúng bắt đầu xâm nhập vào phần lý ) , khi hàn khi nhiệt ( hàn nhiệt vãng lai ), lồng ngực và sườn đầy tức, trầm lặng không muốn ăn uống, tâm phiền buồn nôn, miện đắng, yết họng khô, hoa mắt, rêu lưỡi mỏng trắng, mạch huyền.

Phân tích bài thuốc:

- QUÂN: Sài hồ làm tà ở kinh thiếu dương thấu ra ngoài 

- THẦN: Hoàng cầm sơ tiết uất nhiệt ở kinh thiếu dương ra ngoài

- TÁ VÀ SỨ: Đẳng sâm, đại táo, cam thảo ích khí điều trung, phù chính khu tà / Bán hạ, Gừng chữa nôn mửa, không muốn ăn

Bài thuốc này là chủ phương để hòa giải thái dương. Khí chất của sài hồ là thuốc nhẹ, vị đắng rất ít, có thể làm tan uất trệ của thiếu dương. Hoàng cầm thì đắng mà hàn, khí vị tương đối nặng, có thể thanh nhiệt ở ngực bụng, trừ được phiền đầy. Sài hồ và hoàn cầm cùng sử dụng như là quân và thần có thể giải tà nửa biểu nửa lý của thiếu dương. Bán hạ, sinh khương thì điều lý vị khí, giáng nghịch, cầm nôn mửa. Nhân sâm, chích cam thảo, đại táo ích khí hòa trung, phù chính khu tà. Bài thuốc này dùng cả hàn ôn, thăng giáng cùng điều hòa phối hợp, có tác dụng sơ lợi tam tiêu, điều hòa tới cả tận trên dưới, truyền thông cả trong ngoài, hòa sướng khí cơ.

Gia giảm: 

 Nếu trong ngực khó chịu mà không nôn ra được thì bỏ bán hạ, nhân sâm và thêm qua lâu thực

Miệng khát thì bỏ bán hạ, thêm một ít nhân sâm và qua lâu căn

Trong bụng có đau thì bỏ hoàng cầm và thêm thược dược

Dưới sườn đầy cứng thì bỏ đại táo và thêm mẫu lệ

Cảm giác đập mạnh ở vùng thượng vị, khó tiểu tiện thì bỏ hoàng cầm thêm phục linh

Không khát mà bên ngoài hơi nóng thì bỏ nhân sâm thêm quế chi

Bị ho thì bỏ nhân sâm, đại táo, sinh khương thêm vào ngũ vị tử, can khương.

Lưu ý: 

Không dùng khi bệnh nhân phạm phải càm mạo và tà khí còn ở phần biểu hoặc đã ở phần lý

Không nên dùng cho những người âm dương, khí huyết suy kém có các chứng hư hàn, tiêu hóa kém, mệt mỏi nhiều ngày.



30 tháng 3 2020

Trà thảo dược đông xuân hạ

    Giới thiệu với quý vị cách tự chế một loại trà uống có tác dụng tốt cho tăng cường sức khỏe vào mùa đông, xuân, đầu hạ (ích khí cố biểu chỉ hãn )

Tên cổ phương: Ngọc Bình Phong tán 
Bước 1: chúng ta ra các quầy thuốc đông y hoặc các quầy thuốc của các bệnh viện YHCT lớn để mua các vị dược liệu cần dùng. Các vị dược liệu sẽ dùng ở đây là loại thông dụng trong đông y nên hầu hết các quầy thuốc đều có
 Bước 2: các tên dược liệu cần chọn và tỷ lệ khối lượng của vị dược liệu trong cấu trúc món trà
- Vị Hoàng Kỳ ( sinh Hoàng Kỳ ) với khối lượng chiếm 25%
 - Vị Bạch Truật ( sao vàng ) với khối lượng chiếm 50% món trà
 - Vị Phòng Phong ( phơi khô ) với khối lượng chiếm 25% món trà

 Bước 3: cho từng vị vào máy xay để xay vụn nhỏ các dược liệu. Lưu ý sinh Hoàng Kỳ và Phòng phong là các dược liệu rất dai nên xay hơi lâu, khi xay thành các sợi như sợi ruốc là ok cho món trà ( Nếu xay thành hạt mịn nhỏ thì có thể dùng mật để trộn các dược liệu và làm viên hoàn bằng đầu đũa dùng uống cũng tốt và tiện lợi )

 Bước 4: Trộn các dược liệu với nhau theo tỷ trọng đã nói ở trên.


 Bước 5: cho trà vào các túi lọc rồi cho vào ấm pha trà là ok.

Lưu ý:
Nếu dùng kiểu viên hoàn thì liều dùng khoảng 10-15g/ 3 lần/ ngày
Nếu dùng kiểu pha trà thì mỗi ngày pha ấm trà với khoảng 15-20g/ngày ( pha khoảng 3 nước để tránh bỏ phí bã trà )

12 tháng 2 2020

Phòng chống dịch bệnh theo cụ Lê Hữu Trác

       ( Đại dịch corona đang hoành hành, nhân tiện xem lại cuốn Hải Thượng y tông tâm lĩnh của cụ Lê Hữu Trác thấy có bài viết của cụ liên quan đến cách phòng chống dịch của người xưa bèn trích đăng lên đây để quý vị tham khảo ).
Bài thuốc đáng lưu ý của cụ Lê Hữu Trác được ghi trong “ Vệ sinh yếu quyết ca “ thuộc quyển Hải Thượng y tông tâm lĩnh:

“ Hễ khi ôn dịch phát ra
Dự phòng uống tỏi, bạc hà, lá thông
Nữ thanh, bục dục nên dùng
Lại hun Bồ kết, đàn hương trong nhà
Có dịch thì chớ lân La
Cần nên nút mũi khi ra ngoài đường
Dùng bông bọc tỏi, hùng hoàng
Khi thăm người bệnh lại càng không quên
Chuyện trò đối diện chớ nên
Về nhà tẩy uế mới yên trong lòng
Trong nhà người bệnh ở cùng
Chớ nên chung chạ đồ dùng phòng lây
Nhất là lao trái truyền thi
Đề phòng truyền nhiễm trường kỳ mới yên
....
Ngăn ngừa ôn độc phát ban
Thạch cao, nút áo, lá Chàm uống ngay
Thấp ôn tê mỏi chân tay
Đau lưng nghẹt mũi bệnh này ít lo
Cần nên mặc ấm ăn no
Uống đơn: Hương phụ, tía tô, Trần bì
Phong ôn phát sốt li bì
Cát căn, kinh giới uống thì cũng qua ... “




Lời bàn của tại hạ:
* Cặp đôi cát căn và kinh giới là hai vị thuốc giải biểu, phối hợp giữa tính ấm và mát. Kết hợp này giúp cơ thể bên trong thì thanh mát, bên ngoài thì khu trừ tà khí. Cát căn còn có tác dụng thư cân giúp người bệnh giảm đau mỏi cơ thể.
* Cặp ba thạch cao, nút áo, lá chàm là sự kết hợp các vị thuốc có tính thanh mát, đại hàn cùng tiêu giải độc. 
Theo sách " dược tính ca quát tứ bách vị " thì Thạch cao vị cay, ngọt, tính rất lạnh ( tân cam đại hàn ), thanh nhiệt ở khí phận, thực hỏa ở phế vị mà trừ phiền khát, kiêm giải nhiệt ở cơ biểu. Chứng thực nhiệt ở khí phận phế vị thì coi là vị thuốc được chọn đầu tiên.
Vị thuốc nút áo ( cây cúc áo ) theo sách những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS-TS Đỗ Tất Lợi thì cây có vị cay, tê. ( không nói đến tính dược ), được dùng chữa các bệnh như đau đầu, chữa đau răng, khử khuẩn, các bệnh về họng và răng lợi.
Lá chàm ( chế ra vị thuốc thanh đại ): theo " dược tính ca quát tứ bách vị " thì vị mặn, tính hàn tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, thường chữa huyết nhiệt phát ban, can nhiệt kinh phong, giải độc. Chủ trị nhiệt độc ở phần huyết.
Kết hợp 3 vị thuốc trên sẽ hạ nhiệt mạnh khi cơ thể bị tà khí tấn công sâu vào tạng phủ, đặc biệt giúp trị nhiệt độc phần huyết phận, khí phận giúp phế, tâm, can hồi phục, tiêu giải nhiệt độc ra khỏi cơ thể. 
Lưu ý: Chỉ dùng kết hợp ba vị thuốc này khi tà khí đã xâm nhập vào phần lý ở thể thực chứng, không được dùng khi tà khí đang ở phần biểu. Không dùng cho người có bệnh mạn tính (  tăng huyết áp, huyết áp thấp, tiểu đường, thận suy yếu, gut, tỳ vị hư hàn, dương hư, bẩm tố hoả tiên thiên suy yếu, suy giảm miễn dịch, suy yếu tuyến giáp… )
* Vị thuốc Hùng hoàng là vị thuốc có độc tố mạnh, theo sách " dược tính ca quát tứ bách vị " thì thuốc dùng cho ngoại khoa, chữa trị mụn nhọt, ghẻ lở, hắc lào, sâu bọ cắn, rắn rết căn, sát trùng ..., dùng với liều lượng cực nhỏ trong phạm vi nhỏ và thời gian ngắn để tránh nhiễm độc qua da, khuyến cáo không dùng cho người có thai. Theo Tây y thì Hùng hoàng chứa độc tố khuyến cáo không dùng.


13 tháng 7 2017

Luyện linh đan bồi bổ chân âm

Bước 1: lấy thuốc từ hiệu thuốc theo đơn 

Bước 2: chọn tách các vị thuốc ẩm, ướt do ngâm tẩm


Bước 3: cho các vị khô vào máy xay và xay kỹ 

Bước 4: dùng dây lưới mắt cỡ nhỏ dây cho hạt nhỏ rơi xuống, hạt to lại cho vào máy xay tiếp rồi dây, lần 1, lần 2, lần 3 ....đến hết 

Bước 5: cho các vị ẩm, ướt vào lò vi sóng và đặt ở chế độ sấy khô đến khi thuốc khô dòn thì cho vào máy xay để xay rồi dây lọc như trên.

Bước 6: khi đã dây xong hết thì dùng thìa đảo trộn đều thuốc trước khi thực hiện làm hoàn.

Bước 7: dùng một cái khay ( mâm ) để làm nơi pha trộn và vê viên hoàn

Bước 8: sử dụng găng tay nilon cho việc trộn bột thuốc và vê viên hoàn.

Bước 9: dùng mật ong để tạo kết dính 

Bước 10: một số dụng cụ để đảo, xúc, gạt, cắt ... Khi làm viên hoàn

Bước 10: đổ mật ong vào bát

Bước 11: xúc bột thuốc đổ lên trên lớp mật ong rồi đợi khoảng 10phuts cho mật ngấm vào bột thuốc, tiếp đó dùng tay, thìa để trộn đều cho bột thuốc ngấm mật ong đến độ kết dính vua phải cho vê và nặn hoàn ( vừa trộn vừa bổ sung mật ong nếu thấy bột chưa có độ dính kết phù hợp )

Bước 12: nặn viên hoàn theo kích cỡ ước lệ cho từng đơn thuốc và liều dùng sao cho phù hợp khi sử dụng.

Bước 13: sau khi nặn xọng các viên hoàn thì đợi khoảng 30phuts cho viên hoàn kết dính ồn định

Bước 14: đóng vào hộp hoặc lọ thuỷ tinh ( nếu mỗi viên hoàn có hộp nhựa riêng hoặc bao giấy gói riêng thì tốt nhất ). Vậy là quý vị đã có những viên thuốc hoàn để dùng điều trị chứng bệnh của mình một cách tiện lợi, thời gian sử dụng có thể được vài tháng hoặc lâu hơn nếu bảo quản tốt. Chúc quý vị luôn dồi dào sức khoẻ, bình an và may mắn ! 
 ( P/s : các hình ảnh trên được chụp lại khi tôi làm viên hoàn lục vị gia giảm để chữa chứng thuỷ suy yếu của mình )

09 tháng 6 2017

Bài thuốc đơn giản chữa cảm mạo phong nhiệt mùa hè

    Mùa hè trời rất nóng, không những ở nơi có nắng chiếu mà cả những nơi có bóng râm hoặc trong nhà thì cái nóng nực, oi ả vẫn thâm nhập vào cơ thể khiến chúng ta cảm thấy khó chịu, bứt rứt ... Đặc biệt khi đêm chúng ta bật quạt để ngủ thì hơi quạt thổi vào cơ thể chúng ta cũng rất nóng. Sau một đêm ngủ dậy thì sáng ra thấy người mệt mỏi, đầu đau, chân tay mỏi nhừ ... đó là dấu hiệu ban đầu của chứng cảm mạo phong nhiệt. Nguyên nhân do khí nóng xâm nhập qua bì phu, phế gây nên sự mất cân bằng âm dương ở phần biểu ( hiểu nôm na là phần bao phía ngoài cơ thể ), nếu để một hai hôm thì cơ thể sẽ sốt nóng, mất nước và nhiệt nóng đi sâu vào trong gây nên nhiều bệnh ở các tạng phủ, kinh mạch rất nguy hiểm.
Với các chứng cảm mạo cần phát hiện sớm và điều trị ngay thì liệu pháp cho điều trị rất đơn giản, không tốn kém và hiệu quả gần như đạt 100% chỉ sau một hai ngày. Trong trường hợp mắc chứng cảm mạo phong nhiệt này ta sử dụng một trong các  bài thuốc sau:

Bài 1 
- Lấy một nắm lá cây cối xay ( nhĩ hương thảo ) cho vào máy xay sinh tố, đỏ 0,5 cốc nước lọc xay thật nhuyễn rồi dùng lọc vắt lấy nước.
- Pha 0,3 cốc nước lọc với 2 thìa đường và khoảng 5 hạt muối trắng biển, khuấy cho tan đều rồi đổ trộn với nước vắt lọc từ lá cây cối xay để uống.
- Ngày uống 3 lân ( sáng, trưa, tối ) khi thấy cơ thể hết mỏi, đầu hết nhức thì thôi ( thời gian  tối đa 3 khoảng 3 ngày ).

Bài 2
- Một nắm lá bạc hà, một nắm cây cỏ mực cho vào máy xay sinh tố, đổ 0,5 cốc nước vào rồi xay nhuyễn và vắt lọc lấy nước
- Hòa thêm 01 thìa đường khuấy đều cho tan rồi uống.
- Ngày uống 3 lần ( sáng, trưa, tối ) đến khi thấy người hết mỏi, đầu hết đau thì thôi.
Phân tích bài thuốc:
Nhĩ hương thảo, bạc hà thuộc nhóm thuốc phát tán phong nhiệt chủ trị các nhứng nhiệt xâm phạm phần biểu.
Cấy cỏ mực thuộc nhóm thuốc thanh nhiệt lương huyết chủ trị nhiệt nóng phần huyết dịch
Đường dẫn thuốc vào tạng tỳ giúp thuốc nhanh chóng được tỳ vận hóa và đẩy vào mạch lưu thông khắp cơ thể, đồng thời vị ngọt tạo vị giác dễ chịu khi uống.
Muối dẫn thuốc vào tạng thận, là nơi lọc máu, thải độc với lượng máu đi qua đây rất lớn nên tác dụng giải nhiệt nóng cho toàn bộ cơ thể của thuốc sẽ nhanh hơn. Đồng thời đường, muối và nước lọc kết hợp lại sẽ giúp cơ thể bổ sung dịch

Một số hình ảnh cây bạc hà



Một số hình ảnh cây cối xay



Cây cỏ mực ( cỏ nhọ nồi )



08 tháng 4 2017

Chữa đau viêm lợi, sâu răng bằng lá cây lược vàng



Chia sẻ với quý vị bài thuốc chữa viêm lợi, đau nhức do sâu răng được đúc rút từ chính bản thân khi dùng cây lược vàng.
1/ Thành phần: 
- Lá cây lược vàng. Lưu ý lấy lá thứ 11 trở đi khi đếm ngược từ lá ngọn trở xuống ( đương nhiên như vậy là cây lược vàng cũng có tuổi khoảng từ trên một năm )
- Muối trắng loại có hạt cỡ trung
2/ Cách làm, cách dùng: 
- Lấy kéo cắt lá lược vàng rồi rửa sạch, nên cắt một phần của lá dài khoảng 3-5cm và để phần lá còn lại cho cây sống đở bị ảnh hưởng. Tiếp đó cắt ngang lá thành từng miếng rộng khoảng 1-1,5cm. Lấy khoảng 3-4 hạt muối trắng đặt vào miếng vừa cắt rồi gấp cuộn lại.
- Đặt vào vị trí khu vực đau lợi, răng đau và nhá nhá nhẹ cho lá dập ra, rồi giữ hàm nguyên vậy. Muối và chất nhựa từ lá sẽ tan ra, nên để một lúc rồi nuốt nước miếng còn vẫn giữ hàm để nguyên miếng lá vậy. Một lúc sau thì cắn mạnh hàm một chút cho lá dập thêm và muối tan ra, rồi lại nuốt nước miếng ... Cứ như vậy đến khi miếng lá chỉ còn sơ thì nhả bỏ đi và làm tiếp miếng khác.
- Thực hiện tốt nhất trước lúc ngủ, khi ngậm hàm giữ miếng lá sẽ không lo nuốt miếng lá vào họng.
- Làm như vậy khoảng 1-2 ngày thì sẽ đỡ và khỏi đau viêm lợi, đau sâu răng. Nếu lần sau bị lại sử dụng như vậy. Và như vậy tôi đã không phải dùng thuốc kháng sinh mỗi khi đau răng, viêm lợi mà thời gian khỏi chứng này còn nhanh hơn là dùng kháng sinh, đỡ hại cơ thể, đỡ tốn tiền.
 Chúc quý vị luôn mạnh khoẻ, bình an ! 

24 tháng 4 2016

Tang thầm tửu

Tang thầm tử / quả cây dâu
Tang thầm tửu / rượu ngâm quả dâu




03 tháng 3 2016

Trị trúng gió với rau kinh giới



( Nguồn: sưu tầm tại báo suckhoe.com )

Người trúng gió cấm khẩu thường có các triệu chứng như: Cơ thể không cử động được, miệng á khẩu không nói thành lời. Cần áp dụng ngay bài thuốc sau:

Lấy 1 nắm lá kinh giới sao kỹ cho lá bị cháy đen nhưng chưa thành tro (gọi là sao tồn tính. Nếu sao bị cháy đen thành tro thì tính chất của lá sẽ mất hết). Tán nhuyễn lá thành bột, thêm 1 chút rượu, dùng hỗn hợp này đổ vào miệng người bệnh.
Nếu người bệnh đã cứng miệng, răng nghiến chặt không mở ra được thì dùng múi chanh chà vào răng nướu để người bệnh mở được miệng. Tranh thủ đổ thuốc này vào miệng để bệnh nhân uống ngay sẽ tỉnh.

09 tháng 10 2015

Chín phương thuốc cổ chữ Hán


CỬU PHƯƠNG CỔ DƯỢC 
( Chín phương thuốc cổ )
1/ Ma hoàng thang: phát hãn giải biểu tuyên thông phế khí
Ma hoàng, quế chi, hạnh nhân, cam thảo
2/ Quế chi thang: điều hoà dinh vệ phát hãn giải biểu
Quế chi, sinh khương, bạch thược, cam thảo, đại táo
3/ Tứ quân tử thang: ích khí kiện tỳ dưỡng vị
Nhân sâm, bạch truật, bạch linh, cam thảo
4/ Tứ vật thang: bổ huyết hoạt huyết
Xuyên khung, đương quy, thục địa hoàng, bạch thược
5/ Lục vị địa hoàng thang: tư âm bổ can thận, bổ thuỷ
Thục địa, sơn thù du, sơn dược, trạch tả, đan bì, bạch linh
6/ Bát vị kim quỹ thận khí hoàn: ôn bổ thận dương, bổ hoả
Thục địa, sơn thù du, sơn dược, trạch tả, đan bì, bạch linh, nhục quế, phụ tử
7/ Bát trân thang: bổ khí bổ huyết
Nhân sâm, bạch truật, bạch linh, cam thao, xuyên khung, đương quy, thục địa, bạch thược.
8/ Thập toàn đại bổ: toàn bổ âm dương khí huyết
Nhân sâm, bạch truật, bạch linh, cam thảo, xuyên khung, đương quy, thục địa, bạch thược, hoàng kỳ, nhục quế.
9/ Quy tỳ thang: ích khí bổ huyết kiện tỳ dưỡng tâm
Nhân sâm, bạch truật, hoàng kỳ, cam thảo, viễn chí, toan táo nhân, phục thần, long nhãn, đương quy, mộc hương.


21 tháng 9 2015

Mười phương cổ dược chữ Hán


MƯỜI BẢI CỔ PHƯƠNG ĐÔNG DƯỢC
- Ma hoàng thang / phát hãn giải biểu, tuyên thông phế khí / ma hoàng, hạnh nhân, quế chi, cam thảo.
- Quế chi thang / điều hoà dinh vệ, phát hãn giải biểu / quế chi, sinh khương, bạch thược, cam thảo đại táo.
- Tứ quân tử thang / nhân sâm, bạch truật, bạch phục linh, cam thảo / bổ khí kiện tỳ dưỡng vị.
- Tứ vật thang / xuyên khung, đương quy, thục địa hoàng, bạch thược / bổ huyết, hoạt huyết.
- Lục vị thang / thục địa, sơn thù du, sơn dược, trạch tả, đan bì, bạch linh / Tư âm bổ can thận, bổ thủy. 
- Bát vị thang / thục địa, sơn thù du, hoài sơn, trạch tả, đan bì, bạch linh, nhục quế, phụ tử chế / ôn bổ thận dương, bổ hoả.
- Bát trân thang / đảng sâm, bạch truật, bạch linh, cam thảo, xuyên khung, đương quy, thục địa, bạch thược / bổ khí, bổ huyết.
- Thập toàn đại bổ / nhân sâm, bạch truật, bạch linh, cam thảo, xuyên khung, đương quy, thục địa, bạch thược, hoàng kỳ, nhục quế / toàn bổ âm dương khi huyết.
- Quy tỳ thang / nhân sâm, bạch truật, hoàng kỳ, cam thảo, viễn chí, toan táo nhân, phục thần, Long nhãn, đương quy, mộc hương / ích khí, bổ huyết kiện tỳ dưỡng tâm.
- Độc hoạt tang ký sinh thang / đỗ trọng, độc hoạt, tang ký sinh, tần giao, tế tân, ngưu tất, quế chi, xuyên khung, đương quy, thục địa, bạch thược, cam thảo, nhân sâm, bạch linh, phòng phong / khu phong trừ thấp bổ can thận.

23 tháng 5 2015

Kim ngân hoa


Cây Kim ngân trong các bài thuốc chữa ung thư của Đông y và Tây y

Kim ngân là một cây thuốc được dùng trong phòng chữa ung thư của Đông y. Nó đang ngày càng được phát hiện thêm nhiều tác dụng quý, nên ngày càng được dùng nhiều hơn để đương nhiên trở thành cây thuốc quý của cả Đông, Tây.
            Cây có tên là Kim ngân vì hoa có hai màu: Màu trắng vào buổi sáng và chuyển sang vàng buổi chiều (không phải cây Kim ngân có hoa hai màu như có sách đã ghi). Tên khoa học Lonicera japonica Thunb, họ Cơm cháy Caprifoliaceae, ngoài ra còn có nhiều loài khác cũng được sử dụng như Kim ngân dại (Lonicera dasystyla Rehd), Kim ngân lẫn (Lonicera confusa DC)… phải chú ý phân biệt khi cần chuẩn hoá. Cây Kim ngân mọc hoang trên diện hẹp (chỉ có ở Cao Bằng, Lạng Sơn); Kim ngân dại phân bố rộng hơn, ở nhiều tỉnh miền Bắc; Kim ngân lẫn có ở Thủ pháp Hà Tây. Kim ngân được trồng làm cảnh vì hoa đẹp, hương thơm. Kim ngân được trồng với số lượng lớn tại Công ty Đông dược Bảo Long (Hà Tây) và Vimedimex II (Công ty XNK y tế II) (LTS) với chủ đích tránh Kim ngân giả, đồng thời tạo điều kiện cho phòng chẩn trị phát huy ưu điểm của phương pháp chữa bệnh bằng thuốc tươi theo trào lưu mới đang được đề cao trong y tế cộng đồng của thế giới.

Theo Đông y: Kim ngân hoa tính mát lạnh, vị ngọt, hơi đắng, vào 4 kinh phế, tâm, tỳ, vị; không độc, có công năng thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc, giải biểu, lợi tiểu; dùng chữa dương bệnh, trường hợp không phải thực nhiệt, kiểu hư hàn (ỉa chảy), ra nhiều mồ hôi nên tránh dùng. Nước sắc Kim ngân có tác dụng mạnh hơn các dạng bào chế khác; hoa tốt hơn cành lá (nếu dùng cành lá phải tăng liều lượng gấp 2 - 3 lần).
Theo Tây y, thành phần hoá học có nhiều Flavonoit. Hoa chứa Colymozid (Lonicerin), một số carotenoit (Scaroten), Cryptoxantin, auroxantin; lá chứa Loganin, có tác dụng kháng khuẩn, tăng cường chuyển hoá chất béo (trên thỏ thí nghiệm).
Về độc tính: Theo tài liệu của Viện Dược liệu, chuột nhắt trắng uống nước sắc Kim ngân liên tục 7 ngày với liều gấp 15 lần liều điều trị trên người, chuột vẫn sống bình thường, giải phẫu phủ tạng không có thay đổi gì đặc biệt. Do có độc (khi dùng liều cao) nên chỉ dùng hoa Kim ngân dưới dạng thuốc hãm và sirô với liều thấp (hãm sắc 40g).
Chữa “ung thư theo Đông y”
            Mụn nhọt chia 2 loại: Mang tính dương gọi là “ung”; mang tính âm gọi là “thư”.
Kim ngân hoa chữa các chứng ung thư, chốc lở, mụn nhọt, giang mai. “Nó là một vị thuốc cần thiết cho các chứng ung nhọt…”. Trong Ngoại khoa, tinh yếu của Trần Tử Minh nói: “Rượu Kim ngân hoa chữa ung thư mới phát thật là thần diệu vô biên”. Nguyễn Văn Minh trong Dược tính chỉ nam viết: “Các bài chữa chứng ung nhọt có Kim ngân hoa, đều là thần diệu cả…”. Trong 10 điều tâm đắc khi dùng Đông dược, Tiêu Thụ Đức viết: “Huyết phận có nhiệt độc ung trễ sinh lở loét, sưng tấy mưng mủ, dùng Kim ngân hoa để thanh…”.
            Một số bài thuốc trong sách “Đông y kỳ diệu”
v Kim ngân hoa thảo tửu (Trích Y phương tập giải): Kim ngân hoa 50g, Cam thảo 10g, nấu với 2 chén nước còn 1/2 chén, hoà với 1/2 chén rượu, hâm nóng, chia 3 lần uống trong ngày.
Công dụng: Chữa ung nhọt, phế ung, trường ung.
v Nhẫn đông đằng tiên tửu (Cảnh nhạc toàn thư): Nhân Đông đằng (giây Kim ngân) 50g, Sinh cam thảo 10g, cho vào nồi đất nấu với 2 chén nước lấy 1 chén, cho vào 1 bát nước đun sôi vài lần, lọc bỏ bã, chia 3 phần uống trong ngày. Bên ngoài các chỗ đau, lấy 1 nắm lá Kim ngân hoa giã nhuyễn, nhào với 1 lít rượu, nấu thành cao và đắp.
Công dụng: Chữa ung nhọt mới phát, các khớp xương sưng, nóng, đỏ đau.
v Bổ Kim tửu (Nghiệm phương tân biên): Kim ngân hoa 15g, Bồ công anh 15g, rượu 2 chén, sắc còn 1 chén, chia 2 phần uống làm 2 lần (sáng và tối), sau bữa ăn; bã đắp lên vú đau.
Công dụng: Chữa viêm tuyến vú.
v Tứ diệu dũng an thang (Bào tướng Ngao - đời Thanh): Kim ngân hoa 90g, Huyền sâm 90g, Đương quy 60g để giải độc, hoạt huyết chỉ thống.
Công dụng: Chữa các chứng nhiệt độc kết tụ như: Chân tay đỏ tím, hơi nề, sợ nóng, đau đớn, rồi bị hoại tử, thối rữa, rụng đốt lan dần lên trên chân… Hiện nay dùng chữa viêm tắc động tĩnh mạch hoặc do các nguyên nhân khác gây nên triệu chứng trên. Bên ngoài dùng bột Cam thảo trộn Dầu vừng đắp chỗ đau, ngày thay 1 lần; kết hợp Tây y phẫu thuật.
v Ngũ thần thang (Trần Sỹ Dịch - đời Thanh): Kim ngân hoa 30g, Tử hoa địa đinh 12g, Phục linh 12g, Ngưu tất 10g, Xa tiền tử 10g, sắc uống.
Công dụng: Thanh nhiệt, lương huyết, chữa cốt ung chi dưới. Ngày nay dùng chữa cốt tuỷ viêm, viêm đường tiết niệu và các bệnh thấp nhiệt khác.
Điều trị ung thư theo Tây y (cancer - k)
 K - tuyến vú: Kim ngân hoa 30g, Vương bất lưu hành 30g, Miêu nhãn thảo 30g; chế thành cao, thêm Tử kim đỉnh 12g, Băng phiến 6g, tán bột trộn đều. Ngày uống 2 - 3 lần; mỗi lần 1 - 3g.
 K - gan: Kim ngân hoa 30g, Ngô công 10g; sắc uống ngày 1 thang, kết hợp ăn Tây qua (dưa hấu).
 K - vòm họng: Kim ngân hoa 30g, Sinh thạch cao 20g, Sinh mẫu lệ 20g, Quy bản 20g, Đại thanh diệp 20g, Liên kiều 16g, Bạch thược 16g, Nữ trinh tử 16g, Thương nhĩ tử 16g, Mã bột 16g, Bạc hà 6g, Cốc tinh thảo 10g, Cát cánh 10g, Cam thảo 80g; sắc uống ngày 1 thang.
 K - cổ tử cung: Kim ngân hoa 20g, Đương quy 20g, Sinh lộc giác 16g, Đào nhân 12g, Bồ công anh 16g, Liên kiều 12g, Đan bì 16g, Huyền hồ 10g, Nhũ hương 10g, Xích thược 16g, Hồng hoa 10g; sắc uống ngày 1 thang.
 K - và u bướu giáp trạng: Kim ngân hoa 20g, Sinh miết giáp 20g, Sinh mẫu lệ 20g, Bồ công anh 20g, Hoa phấn 16g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Bồ công anh 20g, Liên kiều 16g, Tam lăng 12g, Nga truật 12g, Hải tảo 12g, Côn bố 12g, Sinh đại hoàng 4g, Toàn yết 5g; sắc uống nóng, ngày 1 thang.
 K - trực tràng: Kim ngân hoa 16g, Bạch mao căn 16g, Quy bản 16g, Thổ phục linh 16g, Bồ công anh 16g, Tử hoa địa đinh 16g, Thăng ma 12g, Hoè hoa 16g, Hạn liên thảo 16g, Cát cánh 16g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Sinh cam thảo 8g; sắc uống ngày 1 thang.
Lưu ý: Từ năm 1995, trên thị trường đã xuất hiện Kim ngân hoa giả làm từ Củ cải hoặc bằng phần xốp trắng trong ống Đu đủ. ở phần trên của túi đựng là Kim ngân hoa thật, còn ở dưới là Kim ngân giả được trộn với tỷ lệ khác nhau.
Trong Đông y có trường hợp cần phối ngũ Kim ngân hoa với Nhân sâm, nhưng nếu Kim ngân hoa là Củ cải thì Nhân sâm bị mất tác dụng (Đông y vẫn giải ngộ độc Nhân sâm bằng Củ cải).
( theo Phó Đức Thuần )

08 tháng 4 2015

Bồ công anh chữa ung thư

( Sưu tầm tại trang http://www.dongtayy.com/ )
Các nhà khoa học tại Đại học Windsor đã tiến hành một nghiên cứu ban đầu tại Khoa Hóa học và Sinh hóa. Và kết quả từ những nỗ lực của họ đã đem tới hy vọng cho tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. 
Họ phát hiện ra rằng rễ bồ công anh phá hủy các tế bào ung thư mà không làm hại các tế bào khỏe mạnh, và kết quả đã được công bố trên trang web ‘Natural News'.
Theo các nghiên cứu, trà bồ công anh làm cho tế bào ung thư phân hủy trong vòng 48 giờ, và nó không ảnh hưởng đến các tế bào khỏe mạnh. Các nhà khoa học kết luận rằng tiêu thụ thường xuyên của rễ bồ công anh phá hủy hầu hết các tế bào ung thư ở bệnh nhân. 
Trà rễ bồ công anh phá hủy các tế bào ung thư bằng cách làm cho chúng tan rã trong vòng 48 giờ, mà không ảnh hưởng đến các tế bào khỏe mạnh. Thế giới vẫn còn hạn chế trong việc nhận thức về sức mạnh của nó, nhưng các nhà khoa học đã xác nhận phạm vi rộng lớn của các thuộc tính sức khỏe trong rễ cây bồ công anh.
Nhưng, tất nhiên, bạn phải chắc chắn rằng nó được thu thập từ các khu vườn sạch, cách xa khu vực giao thông. 
Bạn cũng có thể biết rễ cây bồ công anh hoa dùng làm xi-rô tự nhiên, nhưng những gì bạn không biết là rễ bồ công anh có thể giúp bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư giành chiến thắng trong cuộc chiến chống lại căn bệnh chết người này.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng rễ bồ công anh là tốt hơn rất nhiều so với hóa trị, vì nó chỉ phá hủy hoàn toàn tế bào ung thư.
Ngoài tính chất lợi tiểu của nó, rễ bồ công anh kích thích sự tiết mật, làm sạch gan, giúp trong việc điều trị các bệnh dị ứng và làm giảm nồng độ cholesterol. Nó rất giàu vitamins thiết yếu và khoáng chất, bao gồm vitamin B6, thiamin, riboflavin, vitamin C, sắt, canxi, kali, acid folic và magiê.

Một số hình ảnh cây bồ công anh