Hiển thị các bài đăng có nhãn CÂY THUỐC NAM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CÂY THUỐC NAM. Hiển thị tất cả bài đăng

02 tháng 7 2016

Thài lài và đậu đen chữa sưng đau các khớp

Thài lài + Đậu đen chữa sưng đau các khớp 

Dược liệu :
-Thài lài 15 g
-Đậu đen 50 g

Cách làm : Đổ 600 ml sắc còn 200ml chia 3 lần uống nóng trong ngày
Liệu trình 7-10 ngày

Đồng thời dùng 100g thài lài tươi xào nóng đắp vào chỗ khớp sưng đau rất công hiệu .

Bài thuốc này dễ kiếm, dễ làm lại rẻ  tiền mà tác dụng tốt có thể áp dụng rộng rãi.

Lương y Nguyễn Đình Cự



19 tháng 2 2016

Lá xoài chữa bệnh tiểu đường

( Nguồn tại: suckhoecuoituan.com )

Mỗi ngày chỉ cần 5 lá xoài non, cả nhà không cần phải sợ bệnh tiểu đường nữa

Theo Y học cổ truyền, lá xoài có vị chua ngọt, tính mát, có tác dụng làm mát, lợi tiểu, chống sa nội tạng, được dùng trị bệnh hô hấp như ho, viêm phế quản cấp hay mạn tính, phù thũng.



Trong y học phương Đông, bệnh tiểu đường hay còn gọi là đái tháo đường thuộc chứng bệnh tiêu khát. Bên cạnh việc chữa trị bằng thuốc Tây thì bạn có thể áp dụng một số cách trị tiểu đường từ thảo dược tự nhiên cũng rất tốt, lại không gây ra tác dụng phụ. Hơn nữa, những loại cây thuốc chữa tiểu đường lại có sẵn và rất dễ kiếm ở Việt Nam, chẳng hạn như lá xoài non. 

Gia đình mình có rất nhiều người ngoài 30 tuổi bị tiểu đường nên lá xoài non đã trở thành “đặc sản” không thể thiếu. Mẹ mình thường vào vườn hái lá và đem phơi khô để dùng dần, rất hiệu quả nhé các bạn.


Lá xoài non phơi khô.

Trong lá xoài chứa chất anthoxanthin, có tác dụng hạ đường huyết, phòng các biến chứng ở mắt và mạch máu do bệnh tiểu đường. Kết quả nghiên cứu ban đầu của Đại học Queensland (Úc) cho thấy một số hợp chất trong xoài có tác dụng chữa bệnh tương tự như các loại thuốc trị tiểu đường và làm giảm cholesterol. Chính vì thế, nhiều bác sĩ châu Âu đã sử dụng lá xoài như một phương thuốc hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường vô cùng hiệu quả.

Những kết quả nghiên cứu đều cho thấy chỉ số đường huyết (glycemic index) của xoài rất thấp, vào khoảng 41-60, do đó xoài sẽ không gây tăng lượng đường trong máu.

Cách dùng lá xoài để trị bệnh tiểu đường

Lấy khoảng 5 lá xoài non cắt sợi rồi cho vào cốc, đổ nước sôi vào rồi để qua đêm. Mỗi sáng uống hết ly nước lá xoài này, bỏ phần xác.

Ngoài ra, bạn có thể sử dụng lâu dài bằng cách phơi lá xoài non trong bóng râm cho đến khi khô, đem nghiền thành bột dùng vào buổi sáng và chiều, mỗi lần nửa thìa cà phê bột lá xoài pha loãng với ly nước đầy.


Bạn nghiền lá xoài thành bột rồi cất đi để dùng dần.

Lưu ý

– Vì bài thuốc này giúp làm giảm lượng đường trong máu rất công hiệu nên cần lưu ý không áp dụng nhiều lần trong ngày, vì có thể khiến cho lượng đường huyết giảm quá thấp gây nên chứng hạ đường huyết rất nguy hiểm.

– Không nên uống nước lá xoài cận thời gian với các loại thuốc khác, tốt nhất là uống cách nhau chừng 2-3 tiếng để không làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ các loại thuốc điều trị khác

Theo Bestie.vn

17 tháng 1 2016

Náng hoa trắng chữa bệnh tuyến tiền liệt



Đặc điểm của cây náng hoa trắng

Về tên gọi của cây náng hoa trắng

  • Tên khác: Cây lá náng, Hoa náng, Tỏi lơi, Đại tướng quân, Chuối nước, Náng sumatra.
  • Tên khoa học: Crinum asiaticum L
  • Tên đồng nghĩa: Crinum toxicarium L., C. Sumatranum Roxb., C. Amabile Donn., C. Cochinchinensis Roem.
  • Họ: Náng hay họ Thủy tiên (Amaryllidaceae).
  • Tên nước ngoài: Asian poison bulb, Crinole asiatique.

Đặc điểm hình dáng

Cây cỏ cao khoảng 1 m, sống nhiều năm nhờ than hành. Lá đơn, mọc cách, tập trung ở gốc thành hình hoa thị. Phiến lá chất dai, hình dải dạng bản, phẳng, dày, nạc, đầu thuôn nhọn, gốc nở rộng thành bẹ, dài 85-110 cm, rộng 10-15 cm, màu xanh lục, nhẵn ở cả hai mặt, mặt trên màu sậm hơn; mép lá nguyên, không lượn sóng; gân giữa lồi ở mặt dưới, mặt trên hơi lõm xuống thành hình lòng máng, các gân bên song song. Cụm hoa tán đơn độc, mọc lên từ thân hành qua nách bẹ lá, mang 25-35 hoa. Hoa to, đều, lưỡng tính, mẫu 3, hình loa kèn, màu trắng tuyền, thơm, đứng thẳng. Cuống hoa hình trụ dẹp, gốc nở rộng, dài 1-2 cm, màu xanh, nhẵn. Quả nang, hình cầu, đường kính 3-5 cm. Hạt rộng khoảng 3 cm, có góc, có rốn hạt, nội nhũ nạc bao lấy phôi nhỏ.

Phân bố, sinh học và sinh thái

Cây mọc hoang ở những nơi ẩm ướt hay trồng làm cảnh, trồng bằng dò. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Indonesia. Loại cây này thường ra hoa vào mùa hè.

Thành phần hóa học

Trong Náng hoa trắng có alkaloid gọi là lycorin C16H17NO4. Thân và bẹ lá chứa alkaloid: baconin, licorin, crinasiatin, hipadin; trái chứa ungeremin, criasbetain. Alkaloid được phân bố cả lá, hoa, dò, quả.

Nghiên cứu về Náng hoa trắng và u xơ tuyến tiền liệt

Cây náng hoa trắng khá dễ trồng và có thể sử dụng tất cả các bộ phận của cây để làm thuốc. Đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như các nhà khoa học trong nước đã cho thấy kết quả khả quan về tác dụng của loài cây này. Đề tài “Nghiên cứu cây náng hoa trắng (Crinum asiaticum L.) làm thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt” của Viện Dược Liệu đã kết luận:
  • Náng hoa trắng có tác dụng làm giảm phì đại lành tính trên tuyến tiền liệt lên tới 35,4%.
  • Náng hoa trắng có tác dụng chống viêm mạn rất tốt, có khả năng làm giảm trọng lượng u hạt tới 25,4 %.
  • Khi sử dụng Náng hoa trắng trong thời gian kéo dài cũng không gây tác dụng phụ hay độc tính.

Náng hoa trắng hay trinh nữ hoàng cung?

Cây trinh nữ hoàng cung vốn được coi là dược liệu để chữa trị các khối u như: u xơ tử cung, u nang buồng trứng… Các nghiên cứu đều cho thấy sự gần gũi về thành phần hóa học (alcaloid) cũng như các tác dụng chống viêm, chống độc tế bào của Náng hoa trắng và Trinh nữ hoàng cung. Nhưng hàm lượng Alcaloid toàn phần (thành phần chính có tác dụng lên khối phì đại tiền liệt tuyến) trong Náng hoa trắng (0.97%) lại lớn gấp 2 lần so với Trinh nữ hoàng cung (0.49%). Vì vậy nếu sử dụng náng hoa nắng chữa bệnh phì đại tuyến tiền liệt sẽ có hiệu quả tốt hơn so với trinh nữ hoàng cung.

Vương Bảo sản phẩm có thành phần từ cây náng hoa trắng

Náng hoa trắng được sử dụng khá nhiều trong y học. Nhưng đa phần mọi người vẫn chưa biết về tác dụng của nó mà chỉ sử dụng lá tươi trong một số trường hợp như bong gân, sai gân, bầm tím, sưng tấy khi ngã… Tại Ấn Độ thường dùng củ ép lấy nước pha loãng để làm thuốc gây nôn, không gây tẩy, không đau đớn, cũng có thể nhỏ vào tai chữa đau tai. Ngoài cách sử dụng trên, Náng hoa trắng thường được sử dụng cho bệnh nhân phì đại tiền liệt tuyến ở dạng dịch chiết. Khi sử dụng trên người bệnh phì đại tuyến tiền liệt, Náng hoa trắng giúp làm giảm kích thước khối phì đại, từ đó giảm chèn ép lên niệu đạo. Một lợi điểm nữa của việc sử dụng Náng hoa trắng đó là không gây ra các tác dụng phụ hay làm ảnh hưởng đến khả năng tình dục của người bệnh- một nhược điểm lớn mà những thuốc điều trị phì đại tiền liệt tuyến hay gặp phải.
Náng hoa trắng hiện nay được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng chế tạo dạng viên nén tiện sử dụng. Thực phẩm chức năng Vương Bảo với hàm lượng cao Náng hoa trắng, Hải trung kim, Sài hồ nam và Rau tàu bay, giúp ngăn ngừa và hạn chế sự phát triển của u xơ (phì đại lành tính) tiền liệt tuyến. Đồng thời giúp cải thiện các rối loạn tiểu tiện ở bệnh nhân u xơ tiền liệt tuyến: tiểu đêm, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu không hết, tiểu nhiều lần…
Theo tuyentienliet.com.vn tổng hợp

Phỏng vấn TS. Nguyễn Bá Hoạt về cây Náng hoa trắng

Sau khi bài viết ”Náng hoa trắng – Khắc tinh số một của u xơ tiền liệt tuyến” được đăng trên số báo trước, chúng tôi đã nhận được nhiều câu hỏi phản hồi của quý bạn đọc về cây thuốc quý Náng hoa trắng. Để giúp quý độc giả hiểu rõ hơn về cây thuốc này, nhóm phóng viên đã có một buổi phỏng vấn TS. Nguyễn Bá Hoạt, chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu cây Náng hoa trắng làm thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt”. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Xin chào TS. Xin TS chia sẻ lý do TS chọn cây Náng hoa trắng để tiến hành nghiên cứu ạ?
Việc chọn Náng hoa trắng là xuất phát từ bản thân tôi. Năm 2000, tôi được chuẩn đoán bị u xơ tiền liệt tuyến. Trọng lượng tiền liệt tuyến siêu âm được khoảng 45-47g. Bác sĩ bệnh viện Việt Xô còn chỉ định mổ. Sau đó, tôi được một người bạn mách cho bài thuốc Náng hoa trắng chữa u xơ tiền liệt tuyến. Sau 2 ngày bài thuốc này, tôi thấy triệu chứng bí tiểu giảm. Thấy có kết quả khả quan, tôi tiếp tục sử dụng kéo dài thì thấy u xơ tiền liệt tuyến nhỏ dần, không phải mổ nữa. Cho tới nay đã hơn 14 năm, tiền liệt tuyến của tôi vẫn ổn định ở trọng lượng 22-23g. Từ đó, tôi mới đăng kí với Viện Dược Liệu đề tài nghiên cứu Náng hoa trắng làm thuốc chữa u xơ tiền liệt tuyến.
Phỏng vấn TS. Nguyễn Bá Hoạt về cây Náng hoa trắng 1
TS. Nguyễn Bá Hoạt – Nguyên Viện phó Viện Dược Liệu TW
TS đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu cây Náng hoa trắng làm thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt” trong bao lâu?
Tôi đã nghiên cứu cây Náng hoa trắng trong vòng 8 năm. Đề tài được bắt đầu năm 2001, đến năm 2005 được nâng lên cấp bộ. Năm 2008 thì nghiệm thu. Đó là một quá trình dài gồm rất nhiều nghiên cứu nhỏ như nghiên cứu phân bố, nghiên cứu hóa học, xác định thành phần hoạt chất chính, nghiên cứu độc tính, nghiên cứu dược lý, các nghiên cứu về chiết xuất và bào chế thuốc… Hội đồng nghiệm thu còn đề nghị tôi làm thêm các nghiên cứu đánh giá tác dụng của Náng hoa trắng trên tim mạch, huyết áp, thần kinh vì bài thuốc này sử dụng trên người cao tuổi là chính. Các nghiên cứu được đề nghị đều đã được thực hiện, kết quả cho thấy: Náng hoa trắng không gây tác dụng phụ, an toàn cho người cao tuổi.
Quả thật là một nghiên cứu rất kĩ lưỡng và nhiều tâm huyết. Sau khi nghiên cứu về Náng hoa trắng, TS có đánh giá gì về cây thuốc này ạ?
Kết quả nghiên cứu rất khả quan, Náng hoa trắng hoàn toàn có thể bào chế thành thuốc chữa u xơ tiền liệt tuyến. Với cá nhân tôi thì Náng hoa trắng tốt hơn Trinh nữ hoàng cung, một cây thuốc có tác dụng tương tự. Theo tôi Náng hoa trắng có 3 lợi thế hơn Trinh nữ hoàng cung:
Lợi thế thứ nhất: Thành phần nhóm hoạt chất chính có tác dụng ức chế tế bào u bướu là alcaloid toàn phần trong Náng hoa trắng cao hơn nhiều so với Trinh nữ hoàng cung. Trong đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành so sánh hàm lượng alcaloid toàn phần của Náng hoa trắng và một số cây khác như Náng hoa đỏ, Trinh nữ hoàng cung trong cùng một điều kiện. Kết quả cho thấy hàm lượng alcaloid trong Náng hoa trắng là cao nhất (0,97%), cao gấp 2 lần so với Trinh nữ hoàng cung (0,49%).
Lợi thế thứ hai: hàm lượng chất xanh của Náng hoa trắng rất cao. 1 lá của Náng hoa trắng đã có thể nặng bằng cả cây Trinh nữ hoàng cung.
Lợi thế thứ ba: cây Náng hoa trắng rất dễ trồng. Ở miền Bắc, Trinh nữ hoàng cung thường lụi vào mùa đông nhưng Náng hoa trắng thì tốt quanh năm. Náng hoa trắng có thể chịu được hạn tốt, chịu được nước úng tốt, chịu được cả nước lợ, nói chung cây này có sức sống rất mãnh liệt.
Về tác dụng thực tế, Náng hoa trắng cũng không thua kém Trinh nữ hoàng cung. Đã có nhiều người dùng Trinh nữ hoàng cung không có hiệu quả, nhưng chuyển sang dùng Náng hoa trắng thì lại khỏi bệnh. Rất tiếc sau năm 2008, khi tôi về hưu thì Viện Dược Liệu không tiếp tục nghiên cứu để biến Náng hoa trắng thành thuốc.

Vâng, xin cám ơn TS về buổi phóng vấn rất thú vị này. Kính chúc TS luôn mạnh khỏe!

VTV2 phỏng vấn trực tiếp TS Nguyễn Bá Hoạt về cây Náng hoa trắng:

Kế thừa và phát huy những bài thuốc cổ truyền từ náng hoa trắng, Vương Bảo là sản phẩm đầu tiên trên thị trường kết hợp dược liệu  quý này và  các vị thuốc khác. Vương Bảo giúp hỗ trợ điều trị và ngăn ngừa phát triển u xơ tiền liệt tuyến, cũng như giảm nhanh các triệu chứng khó chịu do căn bệnh này gây ra, giúp trả lại sự tự tin và bản lĩnh vốn có cho phái mạnh.

23 tháng 12 2015

Cây quýt gai ( gai tầm xoọng )




Cây gai tầm xoọng có tên khác là độc lực, quýt gai, quýt rừng, cam trời. Thuộc họ Rutaceae. Cây bụi nhỏ, lá mọc so le, thân có gai dài, lá dày cứng có tinh dầu. Hoa màu trắng, quả tròn khi chín có màu đen. Toàn cây có tinh dầu thơm mùi quýt. Quả xanh chứa chất nhầy. Các bộ phận khác có vị đắng, the, mùi thơm, tính ấm, không độc. Ở nông thôn mỗi khi luộc ốc, người ta dùng gai của cây này để khêu ruột ốc. Vì loại gai này dài sắc và có độ cứng thích hợp. Toàn cây được dùng làm thuốc. Ở Trung Quốc có tên gọi tửu bính lặc.
Theo y học cổ truyền, gai tầm xoọng là vị thuốc chữa phong thấp, có trong các bài thuốc lưu truyền dân gian. Dùng toàn cây thái nhỏ sao vàng hạ thổ sắc uống. Kết quả rất tốt cho nên đã được truyền cho nhau, nó trở thành phương thuốc quý trong dân gian. Ngoài công dụng đó ra, gai tầm xoọng còn có tác dụng chữa ho, chữa rắn cắn, chữa sâu răng, làm tan được huyết bầm huyết ứ, thông hoạt kinh lạc, trừ tà, giảm đau nhức…
Theo kinh nghiệm cây này dùng tươi tốt hơn dùng khô. Có thể dùng độc vị hoặc phối hợp cùng những vị khác thành bài. Điều trị phong tê thấp thì kết hợp với tục đoạn, thổ phục linh, ngải diệp. Điều trị ho đau họng, kết hợp với cát cánh, trần bì, tang diệp. Chống viêm tiêu ứ thì kết hợp với bồ công anh, hồng hoa, tô mộc…
Theo y học cổ truyền, gai tầm xoọng là vị thuốc chữa phong thấp. Dùng toàn cây thái nhỏ sao vàng hạ thổ sắc uống. Kết quả rất tốt cho nên đã được truyền cho nhau, nó trở thành phương thuốc quý trong dân gian. 
Một số ứng dụng trên lâm sàng:
Các khớp sưng đau, đi lại khó khăn, toàn thân mệt mỏi: 
gai tầm xoọng 25g sao vàng hạ thổ, sắc uống.
 Hoặc gai tầm xoọng 16g, thổ phục linh 16g, tục đoạn 12g, ngải diệp 12g, đương quy 12g, kê huyết đằng 12g, thiên niên kiện 10g, quế 6g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần/ngày.
Cần gia giảm theo chứng trạng của người bệnh:
– Đau lâu ngày, cơ thể gầy yếu da xanh, gia đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, đại táo 12g.
– Đau ngực khó thở, gia hắc táo nhân 16g, lạc tiên 16g, hạt muồng (sao) 16g.
-Ăn uống kém, tiêu hóa trì trệ, gia bạch truật 12g, trần bì 12g, biển đậu 16g.
– Đau vai cổ, một bên cánh tay khó cử động: gai tầm xoọng sao vàng hạ thổ 20g, nam tục đoạn 20g, tang chi 12g, rễ cúc tần 12g, kinh giới 12g, quế 10g, thiên niên kiện 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Có thể kết hợp với bài thuốc chườm: ngải diệp 50g, rễ lá lốt 15g. Hai thứ sao rượu,  gói vào miếng vải, chườm tại chỗ. Khi thuốc nguội, sao lại và chườm tiếp.
Khớp gối đau nhức: có biểu hiện xơ cứng, hạn chế vận động: gai tầm xoọng sao vàng hạ thổ 20g, cát căn 16g, huyết đằng 12g, đương quy 12g, tục đoạn 12g, phòng phong 12g, tế tân 10g, quế 10g, đơn hoa 12g, chích thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Công dụng: trừ thấp giảm đau, thông kinh hoạt lạc. Nếu bệnh nhân là người cao tuổi, ít ngủ, gia hắc táo nhân 16g, hạt muồng  (sao) 12g, bạch linh 12g.
Ho hen, khó thở, đau họng mắc đờm: gai tầm xoọng (sao vàng hạ thổ) 16g, cát cánh 12g, trần bì 12g, mạch môn 12g, đại táo 6 quả, tang bạch bì 16g, hoàng kỳ 12g, mơ muối 12g, cam thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Kiêng cua ốc, cá tươi, thịt gà.
Ho kéo dài do biến chứng của cảm cúm: gai tầm xoọng 16g, tế tân 12g, kinh giới 12g, mạch môn 16g, cát cánh 12g, bách bộ 12g, trần bì 12g, thục địa 12g, huyền sâm 10g, xa tiền thảo 16g, rau má 20g, lá xương sông 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Trẻ em ho gà: gai tầm xoọng (dùng lá) 6g, hoa đu đủ đực 6g, cát cánh 6g, lá tía tô 6g, trần bì 6g, tang bạch bì 6g. Đổ nước 300ml, sắc lấy 100ml, chia 3 – 4 lần cho trẻ uống trong ngày.
Ho khan do phế nhiệt: gai tầm 16g, thiên môn 12g, tang diệp 20g, xa tiền thảo 20g, lá xương sông 20g, lá đinh lăng 20g, rau má 24g, bạch linh 10g, mơ muối 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Phụ nữ bị bế kinh: đau bụng dữ dội, bụng dưới căng đầy, da mặt nóng nổi mụn: gai tầm xoọng (sao vàng hạ thổ) 24g, ích mẫu 16g, đương quy 12g, tô mộc 16g, trạch lan 16g, đan sâm 16g, kê huyết đằng 12g, hương phụ 12g, quế 8g.  Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Uống nóng.
Dùng trị bệnh thận hư:Thành phần:
Gai tầm xoọng : 20g, Cây mực: ………. 20g, Cây nổ: …………. 20g, Cây muối:………. 20g
Sắc với 1,5 lít nước uống trong ngày


( Nguồn: sưu tầm trên internet )

Cây thanh táo chữa gân xương


Cây thanh táo còn gọi là thuốc trặc, tần cửu, có tên khoa học Justicia gendarussa L. f. (Gendarussa vulgaris Nees), thuộc họ Ô rô - Acanthaceae. Cây thanh táo là loài cây nhỏ mọc hoang hay thường được trồng làm cảnh, làm hàng rào. Cây cao 1-1,5m. Thân cành non màu xanh hoặc tím sẫm. Lá mọc đối, hình mác hẹp, có gân chính tím, không lông. Trên mặt lá thường có những đốm vàng hoặc nâu đen do một loài nấm gây nên. Hoa mọc thành bông ở ngọn hay ở nách lá về phía ngọn bao bởi nhiều lá bắc hình sợi. Ðài 5, hợp ở gốc cao 3-5mm. Tràng màu trắng hay hồng có đốm tía, chia 2 môi. Nhị 2, bao phấn 2 ô. Quả nang hình đinh, dài 12mm. Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Justiciae, thường gọi là Tiểu bác cốt. Theo Đông y, cây thanh táo có vị cay, tính ấm; có tác dụng nối gân tiếp xương, tiêu sưng giảm đau. Rễ có vị hơi chua cay, tính bình có tác dụng hoạt huyết, trấn thống, làm lợi đại tiểu tiện, tán phong thấp. Vỏ rễ và vỏ thân có tác dụng gây nôn. Lá có tác dụng sát trùng. Thường được dùng trị gãy xương, sái chân, phong thấp viêm khớp xương. Rễ dùng chữa vàng da, giải độc rượu, còn trị viêm thấp khớp, bó gãy xương, trật khớp. Liều dùng 15-20g cây khô, dạng thuốc sắc. Vỏ rễ, vỏ thân sắc uống hoặc ngâm rượu uống chữa tê thấp. Rễ và cành lá có thể dùng tươi giã đắp các vết thương chỗ sưng tấy và bó gãy xương. Còn dùng tán bột rắc trừ sâu mọt. 
Sau đây là một số bài thuốc có vị thanh táo:
 - Chữa bong gân sai khớp: 
Thanh táo 20g,
 lá diễn tươi 50g; 
cốt toái bổ, 
xuyên tiêu, mần tưới mỗi vị 20g.
 Sắc uống lúc còn ấm, mỗi ngày 1 thang. 
Bên ngoài dùng lá thanh táo, lá ngải cứu, lá diễn dùng tươi, lượng bằng nhau. Giã nhỏ đắp ngày 2 lần. 
- Chữa ho, sốt, mồ hôi trộm: 
Rễ thanh táo, miếp giáp, địa cốt bì, sài hồ mỗi vị 10g;
 đương quy, tri mẫu mỗi vị 5g;
 thanh tao, ô mai mỗi vị 4g. 
Sắc uống trong ngày. 
- Viêm tinh hoàn (dái sưng đau, một bên sa xuống):
 Rễ thanh táo, rễ sưng, rễ bấn trắng, rễ vạy đỏ, mỗi vị một nắm, sắc uống. 
- Chữa sản phụ máu xấu đưa lên choáng váng, mắt mờ: 
Thanh táo, mần tưới, cỏ màn chầu, mỗi vị 20g, sắc uống. 
- Chữa phong thấp, tay chân tê bại: 
Rễ thanh táo, dây chiều, rễ hoàng lực, rễ gai tầm xoọng, mỗi vị 20g; 
cốt khí củ, thiên niên kiện mỗi vị 10g. 
Sắc uống ngày 1 thang. 
- Chữa vết lở, vết thương nhiễm độc chảy máu không dứt hay nhọt lở thối loét, khó kéo miệng: 
Lá thanh táo và lá mỏ quạ lượng bằng nhau, rửa với nước muối, giã nhỏ, đắp rịt, thay thuốc hằng ngày. 
Trong uống nước sắc bạch chỉ nam, kim ngân hoa, bồ công anh, mỗi vị 1 nắm và ăn rau sống hằng ngày,
 sau một tuần lễ sẽ có kết quả. 
Chú ý, cây thanh táo có độc nhẹ, người bệnh nên tham khảo ý kiến của các lương y danh tiếng.... 
Đọc thêm tại: http://nongnghiep.vn/thanh-tao-noi-gan-tiep-xuong-nhung-doc-nhe-post138119.html | NongNghiep.vn


13 tháng 12 2015

Cà gai leo


Link: http://tuelinh.vn/ca-gai-leo-155
Cà gai leo
1- Tên khác:
Cà vạnh, Cà cườm, Cà quánh, Cà quýnh.
2- Tên khoa học:
 Solanum hainanense hoặc Solanum procumbens Lour., họ Cà (Solanaceae).
 Cây mọc hoang nhiều nơi trong nước ta.
3- Bộ phận dùng:
Rễ (Thích gia căn), dây (Thích gia đằng)
4- Thành phần hoá học chính:
Rễ có alcaloid, tinh bột, flavonoid. Dây có alcaloid.
5- Công dụng:
Cây được dùng trị phong thấp, sâu răng, đau nhức các đầu gân xương, cảm cúm, ho, ho gà, dị ứng. Còn dùng trị rắn độc cắn, giải độc rượu, bia, chống say tàu xe.
Hiện nay Cà gai leo đã được nghiên cứu và chứng minh có tác dụng điều trị viêm gan do virus, xơ gan và ung thư gan.
6- Cách dùng, liều lượng:
Ngày dùng 16-20g dưới dạng thuốc sắc.
7- Một số đề tài nghiên cứu về cây cà gai leo
Cà gai leo được PGS.TS Phạm Kim Mãn, TS Nguyễn Thị Minh Khai – Viện dược liệu trung ương nghiên cứu từ những năm đầu của thập kỷ 90. Viện Dược liệu TW đã có 2 đề tài cấp nhà nước, 4 luận án tiến sỹ, nhiều luận văn nghiên cứu về Cà gai leo.

Trong báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước “Điều trị hỗ trợ bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính thể hoạt động” bằng thuốc từ  Cà gai leo do viện dược liệu trung ương chủ trì đã đi đến kết luận: Thuốc từ cà gai leo có tác dụng giảm nhanh các triệu chứng lâm sàng (mệt mỏi, đau tức hạ sườn phải, nước tiểu vàng, da và niêm mạc vàng); men gan (transaminase) và billirubin về bình thường nhanh hơn các nhóm chứng; sau điều trị những biến đổi các marker của siêu vi viêm gan B là rõ rệt tại các bệnh viện 103, 108, 354. Tỷ lệ âm tính với HBsAg đạt 23,3%, chuyển đảo huyết thanh 37,8%; 62,9% có HBVDNA < 5 copies/ml. Thuốc không gây một tác dụng ngoại ý nào trên lâm sàng và xét nghiệm. Các kết quả từ những nghiên cứu đều đi đến một kết luận Cà gai leo chính là đối trọng của Viêm gan siêu vi và là dược liệu có tác dụng làm âm tính siêu vi mạnh nhất hiện nay.

Đề tài cấp Nhà nước KHCN 1105 “Nghiên cứu thuốc từ cà gai leo làm thuốc chống viêm và ức chế sự phát triển của xơ gan” do TS. Nguyễn Thị Minh Khai cũng được nghiệm thu đạt loại xuất sắc.

Theo kết quả nghiên cứu: Cà gai leo có tác dụng chống viêm và ức chê sinh tổng hợp colagen ở một số tổ chức mô liên kết.

Luận án do Nguyễn Thị Bích thu thực hiện cũng kết luận: dạng chiết toàn phần của Cà gai leo làm giảm trọng lượng u trên mô hình u thực nghiệm 42,2% và làm giảm hàm lượng colagen gan trên mô hình xơ gan là 27,0%. Kết quả đã chứng minh glycoalcaloid là hoạt chất chính có tác dụng ức chế sư phát triển của xơ gan, chống viêm, bảo vệ gan trong cao toàn phần của cà gai leo. Đã nghiên cứu phát hiện những tác dụng dược lý mới của Cà gai leo như tác dụng trên hệ miễn dịch, trên tế bào ung thư cũng như thử tác dụng trên gen gây ung thư của virus và gen ức chế ung thư P53 và Rb. Cho đến thời điểm này Cà gai leo là dược liệu duy nhất được chứng minh là kìm hãm và ngăn chặn xơ gan phát triển.

Cây thuốc nam trên sân thượng ngày 11.12.2015

 Cây lược vàng 

 Cà gai leo

 Phèn đen và dạ ngọc minh châu

 Cây dành dành 

Cây hoa hòe 

07 tháng 12 2015

Bạch hoa xà thiệt thảo


Bạch hoa xà thiệt thảo tuy là vị thuốc mới được biết đến nhưng thường có mặt trong các bài thuốc giải độc, chữa bệnh về gan.
1. Mô tả:
Bạch hoa xà thiệt thảo, còn gọi với nhiều tên khác như xà thiệt thảo, mục mục sinh châu thảo, dương tu thảo, xà châm thảo, bạch hoa thập tự thảo, dịch kinh thảo, nam địa châu, tán thảo, trúc diệp thảo...
Trong cuốn "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam", GS Đỗ Tất Lợi gọi loại cỏ này là cây lưỡi rắn, tên khoa học là Oldenlandia diffusa (Willd).
Ở Trung Quốc, cây này mọc nhiều ở các vùng tây nam và đông nam, được thu hái vào mùa hè và mùa thu. Ở Việt Nam, GS Đỗ Tất Lợi cho rằng cây này được tìm thấy nhiều ở các đường ray tàu hỏa hoặc những nơi ẩm thấp.
Bach hoa xà thiệt thảo là loài cỏ nhỏ, mọc bò lan sống hàng năm. Thân màu nâu nhạt, tròn ở gốc, thân non có bốn cạnh, mang rất nhiều cành.
Lá hình mác thuôn, dài khoảng 1,5 – 3,5 cm, rộng 1 – 2 mm, nhọn ở đầu, màu xám, dai, gần như không có cuống, lá kèm khía răng cưa ở đỉnh. Hoa mọc đơn độc, hoặc từng đôi ở nách lá.
Hoa nhỏ có 4 lá đài hình giáo nhọn, ống đài hình cầu. Tràng gồm 4 cánh hoa, 4 nhị dính ở họng ống tràng. Quả bế, bầu hạ, còn đài, hình cầu hơi dẹt ở 2 dầu, bên trong có chứa nhiều hạt nhỏ, có góc cạnh.
2. Tác dụng dược lý

KHOA ĐÔNG Y, BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108
THẠC SỸ - BÁC SỸ HOÀNG KHÁNH TOÀN
Theo Đông y, bạch hoa xà thiệt thảo có vị ngọt, nhạt, hơi đắng, tính mát, không độc, đi vào 3 kinh tâm, can và tỳ. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc. Dùng để trị chứng ho do phế nhiệt, viêm họng, viêm ruột thừa, kiết lỵ, sốt cao, hoàng đản, viêm khoang bụng, các chứng ung nhọt, rắn cắn...
Cũng theo BS Hoàng Khánh Toàn, bạch hoa xà thiệt thảo có những tác dụng dược lý như sau:
- Kháng khuẩn tiêu viêm:
Trên thực nghiệm ngoài cơ thể tác dụng không rõ ràng, riêng với tụ cầu vàng và trực khuẩn lỵ có khả năng ức chế nhẹ nhưng với nồng độ dịch chiết cao có thể ức chế được cả trực khuẩn mủ xanh và thương hàn.
Trên thỏ thực nghiệm gây viêm ruột thừa, bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng phát huy khả năng chống viêm, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống võng mạc nội mô và hoạt lực của đại thực bào.

- Cải thiện công năng miễn dịch của cơ thể:
Nghiên cứu thực nghiệm trên chuột cho thấy bạch hoa xà thiệt thảo có thể tăng cường năng lực hoạt động của ConA và LPS đối với phản ứng tăng sinh của tế bào lách, nâng cao năng lực hoạt động của tế bào lympho T và B.
- Chống ung thư:
Nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy bạch hoa xà thiệt thảo có khả năng ức chế tế bào ung thư, nhất là ung thư máu, nhưng trên cơ thể động vật thì tỏ ra không có phản ứng rõ rệt.
Các nhà nghiên cứu cho rằng tác dụng này của bạch hoa xà thiệt thảo mang tính không đặc hiệu.
- Tác dụng chống viêm gan và công năng tương tự như corticoid.
3. Tác dụng giải độc, chữa bệnh về gan:
Bạch hoa xà thiệt thảo tuy là vị thuốc mới được biết đến nhưng thường có mặt trong các bài thuốc giải độc, chữa bệnh về gan.
Trong cuốn "Dược học cổ truyền" do Bộ môn Dược học cổ truyền, trường Đại học Dược Hà Nội biên soạn có xếp loại cỏ này vào nhóm thảo dược giải độc.
Nghiên cứu còn cho thấy bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh lý gan mật liên quan đến virut viêm gan B.
Theo BS Hoàng Khánh Toàn, các nhà nghiên cứu thuộc Viện y học Hồ Nam số 2 (Trung Quốc) đã dùng bạch hoa xà thiệt thảo 312,5g, hạ khô thảo 312,5g, cam thảo 156,25g chế thành 500ml siro, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 25ml, liệu trình trị liệu 28 ngày.
Chiết xuất này dùng để chữa cho 72 bệnh nhân bị viêm gan cấp tính thể hoàng đản, đạt kết quả khỏi 45 bệnh nhân (62,5%), có hiệu quả 100%.
Các bài thuốc sử dụng bạch hoa xà thiệt thảo để phòng và chữa bệnh về gan như sau:
- Bài thuốc trị viêm gan, vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 40g, hạ khô thảo 40g, cam thảo 16g. Ba thứ rửa sạch, sắc lấy nước đặc, chế thành xi rô để uống trong ngày. 
- Bài thuốc bảo vệ gan, lợi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo, Hạ khô thảo, Cam thảo tỉ lệ 2 - 2 - 1 sắc uống.

29 tháng 11 2015

Giảo cổ lam


Các nhà khoa học đã thừa nhận rằng trong giảo cổ lam có hơn 100 loại saponin cấu trúc triterpen kiểu damaran, trong đó có nhiều loại giống với nhân sâm và tam thất.
1. Mô tả:
Giảo cổ lam hay còn gọi là ngũ diệp sâm, thất diệp đảm, Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino, họ bầu bí Curcubitaceae. Ở Nhật Bản cây này được gọi là cây trường sinh, Trung Quốc gọi là Jiaogulan, sâm nam.
Cây còn có nhiều tên thể hiện sự quý hiếm như ngũ diệp sâm, sâm phương nam, cây cỏ thần kỳ…
Giảo cổ lam có thân mảnh, leo nhờ tua cuốn đơn ở nách lá. Cây cái và cây đực riêng biệt. Lá kép có hình chân vịt.
Cụm hoa có hình chuỳ, nhiều hoa nhỏ màu trắng, cánh hoa rời nhau xoè hình sao, bao phấn dính thành đĩa, bầu có 3 vòi nhuỵ.
Quả khô có hình cầu, đường kính khoảng 5 – 9 mm, khi chín có màu đen.


2. Quá trình phát hiện cây quý:
Giảo cổ lam được coi là một dược liệu đầu vị quý ghi trong sách cổ “Nông chính toàn thư hạch chú”, quyển hạ, năm 1639, của Trung Quốc.

Năm 1976, Nhật Bản tình cờ phát hiện giảo cổ lam khi nghiên cứu một bộ lạc sống trên núi cao có tuổi thọ bình quân 98 tuổi. Họ phát hiện ra, người dân nơi đây dùng loại cây này chế biến thành trà và bào chế thành thuốc để tăng cường sức khỏe.
Các nhà khoa học Việt Nam cũng phát hiện giảo cổ lam ở vùng núi Phanxipăng, Sa Pa (tỉnh Lào Cai). Theo nghiên cứu, giảo cổ lam Việt Nam có chất lượng tương đương với giảo cổ lam của Nhật Bản và Trung Quốc.
3. Dược tính của giảo cổ lam:
NGUYÊN HIỆU TRƯỞNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘIGIÁO SƯ, TIẾN SĨ PHẠM THANH KỲ:
Giảo cổ lam làm hạ cholesterol toàn phần trong máu, làm tăng miễn dịch và nâng cao sức đề kháng của cơ thể… Ngoài ra, hoạt chất gypenosid trong loại thực vật này giúp kìm hãm sự phát triển của khối u vì cơ chế giải độc mạnh và giúp điều chỉnh những rối loạn chuyển hóa ở cấp tế bào. (Theo VNExpress)
Các nhà khoa học đã thừa nhận rằng trong giảo cổ lam có hơn 100 loại saponin cấu trúc triterpen kiểu damaran, trong đó có nhiều loại giống với nhân sâm và tam thất. Nhờ đặc tính này mà giảo cổ lam còn được gọi là ngũ diệp sâm.
Tuy nhiên, giảo cổ lam có ưu thế hơn nhân sâm là có tới 80 loại trong khi nhân sâm chỉ có 20 loại.
Giảo cổ lam chứa nhiều Flavonoid, là hoạt chất có tác dụng sinh học cao, chống lão hóa mạnh. Ngoài ra, nó chứa nhiều acid amin tan trong nước, nhiều vitamin và các nguyên tố vi lượng như Zn, Fe, Se.
Những nghiên cứu về giảo cổ lam trên người và động vật đều cho thấy những kết quả rất đáng kinh ngạc.
Giảo cổ lam có tác dụng ức chế tăng cholesterol 71% theo phương pháp ngoại sinh và 82,08% theo phương pháp nội sinh, do đó, nó có tác dụng giảm mỡ máu rất mạnh.
Thử nghiệm trên chuột còn cho thấy giảo cổ lam có tác dụng tăng lực tới 214,2%. Với tác dụng tăng lực như trên, các vận động viên của Trung Quốc và Nhật Bản thường sử dụng giảo cổ lam trước các cuộc thi đấu và họ gọi loại cây này là Doping thiên nhiên.
Những người dân ở vùng núi cao thuộc tỉnh Quý Châu, Trung Quốc thường xuyên uống cây này và họ thường sống trên 100 tuổi.
Những công dụng chính của giảo cổ lam được kể đến như sau:
– Giúp bình ổn huyết áp, chống kết tụ tiểu cầu, làm tan huyết khối, ngăn ngừa sơ vữa mạch, các tai biến về tim, mạch, não.
– Chống lão hóa, ngăn ngừa stress, giúp ăn ngon miệng, ngủ ngon giấc.
– Ngăn ngừa ung thư não, phổi, dạ dày, thận, vú, tử cung, da, tuyến tiền liệt, tuyến giáp. Ngoài ra giảo cổ lam giúp bệnh nhân sau phẫu thuật, chiếu tia xạ, truyền hóa chất ăn ngủ tốt, mau hồi phục sức lực.
– Làm giảm đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường, giúp giảm các biến chứng do bệnh tiểu đường gây ra.
– Bảo vệ tế bào gan rất mạnh trước sự tấn công của các chất gây độc, làm tăng tiết mật và làm tăng đáp ứng miễn dịch tế bào khi chiếu xạ hoặc gây độc tế bào bằng hóa chất…
Giáo sư, tiến sĩ khoa học Trần Văn Sung – Nguyên Viện trưởng Viện Hóa học: “Việc tìm thấy chất phanosid hạ đường huyết mạnh, gypenosid chống u và bây giờ là adenosin tốt cho tim mạch chứng minh chất lượng giảo cổ lam Việt Nam rất tốt.
Đây là loại cây đặc biệt rất cần được bảo vệ và phát triển thành những thuốc quý phục vụ thị trường trong nước cũng như xuất khẩu”.


Xem chi tiết: http://xuangiao.com/cay-co-than-ky-giup-nguoi-nhat-song-tho-co-nhieu-o-viet-nam.html#ixzz3sqyieG5z

21 tháng 11 2015

Chữa bệnh tổ đỉa bằng lá sim

( bài viết sưu tầm trên internet ) 

Trước đây tôi cũng bị tổ đỉa ở chân, ngứa vô cùng, nó không lây sang chân khác, cũng không lây ai. 

Tình cờ, một anh bạn cùng lớp với tôi cũng bị, trước ngày 30/4 anh ấy còn bị, sau khi nghỉ mấy ngày, xuống thấy chân anh ấy hết.

Tôi mới hỏi anh ấy cách chữa, anh cho biết, có một ông thày Tàu cạnh nhà anh ấy chỉ và anh ấy thực hiện, sau vài ngày là khỏi.

Lấy lá sim (ở núi) sau đó sắc thật đặc như cao, bôi cao sim vào những chỗ tổ đỉa, sau đó quệt mật gà trống lên trên, vài ngày là khỏi. 

Tôi cũng làm thế, tuy nhiên, tôi làm bằng lá ổi thì không hiệu nghiệm bằng, nếu bạn nào bị thì nên lấy lá sim, hiệu quả hơn. 

Chúc những bạn bị tổ đỉa cố gắng thực hiện.




19 tháng 11 2015

Cây dong riềng đỏ chữa bệnh tim


Chỉ nhờ ăn cháo tim lợn nấu với dong riềng đỏ, người đàn bà bị bệnh viện trả về đã khỏe mạnh và đi làm nương rẫy.
Dong riềng đỏ là cây thuốc mới chưa có trong Dược điển, đã được bác sỹ Hoàng Sầm, người dân tộc Dao (Mán), hiện là Chủ tịch Hội đồng Viện Y học bản địa Việt Nam nghiên cứu từ năm 2002 đến nay.

Thoát chết nhờ một cây thuốc lạ

Những ngày cuối tháng 6, trong cái nắng sầm sập của miền Bắc, bác sĩ Hoàng Sầm vẫn cố gắng chăm sóc vườn giống cây dong riềng đỏ của mình. Với ông đây là một 'kho báu' truyền lại cho bà con nhân dân.
Tâm sự về cơ duyên của mình với cây dong riềng đỏ, bác sĩ Sầm kể lại: Vào những năm 1994, lúc đó khi ấy tôi tuổi còn đang trẻ, khao khát hiểu biết và cũng được tiếng chữa bệnh mát tay. Một lần đi khám cho mẹ một người bạn ở xã Sỹ Bình, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn. Từ cơ quan là trường Đại học Y Bắc Thái - nơi tôi đang làm việc đến địa chỉ trên rất xa. 
Khi về xã Sỹ Bình đèo heo hút gió, qua suối Pù Cà, chúng tôi tới nhà người bệnh thì trời đã tối. Tranh thủ trước khi ăn cơm tôi hỏi bệnh sử và quá trình mắc bệnh. Được biết người bệnh mắc bệnh suy tim do hẹp động mạch vành, tuổi đã khá cao. Bà được chạy chữa ở bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên rồi xuống bệnh viện Bạch Mai nhưng bệnh thuyên giảm không đáng kể. Khám thấy phù 2 chân, khó thở, đau thắt ngực nhiều, tim to, môi lưỡi nhợt nhạt, tiên lượng gần xa đều xấu. Tôi cũng dặn dò, động viên và kê đơn mà trong lòng khiên cưỡng bất an, phần thấy sở học của mình bất lực và thật khiêm tốn'.

Người bệnh tim gần chết khỏe lại nhờ dong riềng đỏ - ảnh 1
Cây dong riềng đỏ (Ảnh minh họa: Internet)
Không cứu được người bệnh nhưng đồng bào Dao ở đó vẫn trân trọng và kính quý bác sĩ Sầm. Điều ấy càng khiến cho bác sĩ Sầm thấy day dứt. Hình ảnh về ca bệnh cứ gặm nhấm ông và nhiều năm sau này ông vẫn tự hỏi tại sao mình lại không giúp được gì bà cụ. Đến năm 2002 trong một lần công tác ở Bắc Cạn, bác sĩ Sầm gặp lại người bạn năm xưa. Nhớ lại lúc ấy, bác sĩ Cầm kể: 'Tôi có chút ngại ngùng vì ngày trước đã không cứu được mẹ anh. Tôi nghĩ bà cụ chắc đã qua đời. Nhưng thật bất ngờ khi người bạn nói mẹ của anh ấy vẫn khỏe và hỏi thăm anh bác sỹ người Dao'.
Hỏi ra bác sĩ Sầm mới biết, khi bà cụ thập tử nhất sinh có một ông lang già cũng người Dao cho 1 cây thuốc nam lá hơi giống lá dong, thân đỏ như mía dò, củ nhơn nhớt, tên tiếng Dao là cây Si mun. Theo hướng dẫn, người nhà đem cây thuốc này nấu với tim lợn, ăn. Trong khoảng hơn 6 tháng, uống tới đâu nhẹ người tới đó và rồi bà dần dần khỏi, đi nương rẫy được. Là bác sĩ nhưng bản thân bác sĩ Sầm cũng thấy điều đó thật là tuyệt vời, trên cả bất ngờ.
Bẵng đi một thời gian, vào năm 2003, bác sĩ Sầm dạy lớp bác sỹ chuyên khoa cấp I gia đình. Lớp có 17 người, đều là những bác sỹ học trò cũ, tuổi trên dưới 40, thầy trò rất thân thiện vì chênh lệch tuổi không đáng kể.
Vào giờ giải lao bác sỹ Nguyễn Quốc Vinh, Trưởng trạm y tế xã Tân Lập, huyện Đồng Hỷ, Hà Giang nói: Thầy ạ, em có cây thuốc chữa mạch vành hay lắm, trước đây em đau thắt ngực liên tục, tháng nào cũng phải tới gặp bác sỹ chuyên khoa tim mạch ở Thái Nguyên, rồi Hà Nội. Hai năm trời mà không sao khỏi được, may có ông lang Xướng ở xã Cao Ngạn có cho mấy liều thuốc nam mà nay em ổn định, hết đau ngực hoàn toàn. Hỏi thêm mới biết đó là một loại củ nhơn nhớt, hơi giống củ dong riềng, ăn chẳng có mùi vị gì nhưng đem nấu với tim lợn cho người bệnh mạch vành ăn cả nước lẫn cái thì rất ổn'.
Bác sĩ Sầm chợt nhớ ra bài thuốc mà người bạn kia kể đã giúp bà cụ từ mức 'viện trả về' vẫn qua khỏi và khỏe mạnh đi rẫy được. Cảm giác về một thứ cây thuốc nhơn nhớt của ông Lang người Dao trên xã Sỹ Bình, Bắc Cạn cứ lấp lửng trong tâm trí của bác sĩ Sầm. Ông bèn tìm hiểu thêm.
Theo bác sỹ Vinh tiếng Nùng Cao Bằng gọi là cây Slim khỏn; Lạng sơn gọi Slim tàu tẳng, Ông Đại tá Lương Tuấn nguyên chủ nhiệm Cục chính trị Quân khu I và ông Vi Văn Chò, nguyên Trưởng ty Lương thực thì gọi là Si mun; tiếng kinh gọi là cây Dong riềng đỏ. Slim khỏn là tim đập rộn, khốn; Slim tàu tẳng là tim đập nhanh liên hồi; Si mun tiếng Dao nghĩa là đau tim. Lúc này, bác sĩ Sầm mừng quá vì sự trùng hợp này, mừng vì đây có thể là một phát hiện mới, mừng vì nó sẽ không bị thất truyền.

Cây dong riềng đỏ là thần dược cho tim mạch?


Người bệnh tim gần chết khỏe lại nhờ dong riềng đỏ - ảnh 2

Cây dong riềng đỏ đã được xác lập quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam và công ước về sở hữu trí tuệ thế giới (Ảnh minh họa: Internet)

Để chắc chắn hơn về sinh thái, hình thái và tác dụng cây dong riềng đỏ trong dân gian, năm 2004, bác sĩ Sầm tự bỏ tiền túi ra tổ chức đi điều tra, khảo sát ở 16 tỉnh, 26 huyện của toàn Việt Bắc và Tây Bắc; làm điện tim cho 2 khu vực khác tỉnh, mà ở đó người dân tộc thiểu số có dùng hoặc không dùng cây dong riềng đỏ để ăn. So sánh hơn 170 bản ghi điện tim của 2 nhóm người có tuổi, người cao tuổi cho thấy vùng có sử dụng dong riềng đỏ làm thực phẩm tỷ lệ mắc bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ do mạch vành ít hơn tới mức hơn cả mong đợi. Như vậy, sơ bộ có thể kết luận dong riềng đỏ có tác dụng phòng ngừa bệnh mạch vành.
Để làm sáng tỏ giá trị cây thuốc vô cùng quý mà lại không quá hiếm này, năm 2005 nhóm nghiên cứu của bác sĩ Sầm đã tiến hành đề tài khoa học tên là: 'Nghiên cứu dịch chiết cây Dong riềng đỏ ứng dụng điều trị cơ tim thiếu máu cục bộ', đây là đề tài trọng điểm cấp Bộ mang mã số: B2005-04-46TĐ do Bộ GD&ĐT cấp kinh phí. Với sự giúp đỡ, phối hợp nghiên cứu, chỉ dẫn khoa học của hơn 10 giáo sư, tiến sỹ y dược học như Giáo sư Nguyễn Nghĩa Thìn, Giáo sư Trịnh Bình, Giáo sư Nguyễn Trọng Thông, Phó giáo sư Phùng Quốc Việt, tiến sỹ Nguyễn Khang Sơn… đề tài đã được nghiên cứu thành công và nghiệm thu xuất sắc bởi hội đồng khoa học cấp bộ.
Trên thế giới hiếm cây thuốc nào chữa bệnh tim mà tích hợp được 7 trong 1 như cây dong riềng đỏ. Vì nó vừa chữa suy tim; hạ huyết áp; điều hoà nhịp tim; giãn vi mạch vành; giảm đau ngực nhanh; làm sạch lòng mạch vành và vừa an thần. Chỉ cần độc vị dong riềng đỏ, bất kể là lá, hay thân hoặc củ đã sao thơm nấu với tim lợn đều có thể chữa bệnh.
BS Sầm từng chứng kiến có bệnh nhân chụp xạ hình gắng sức vùng cơ tim thiếu máu tới 41%; có bệnh nhân hẹp khẩu kính mạch vành tới 82%. Vậy mà chỉ sau 8-12 tháng vùng thiếu máu chỉ còn 5%; khẩu kính lòng mạch vành cải thiện rõ rệt. Ngay cả những người sau đặt stent nong mạch vành mà vẫn đau ngực cũng hiệu quả.
Hiện nay cây dong riềng đỏ đã được xác lập Quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam và Công ước về sở hữu trí tuệ thế giới. Đây là cơ sở pháp lý để cây thuốc này được tiếp cận với những người Việt Nam không may mắc bệnh mạch vành tim và xa hơn nữa có thể vươn ra thế giới.
Từ 10 hạt giống đầu tiên, cách đây 15 năm, đến nay Viện Y học bản địa Việt Nam đã nhân giống, hướng dẫn bà con nhiều đáng kể. Vì muốn bà con tự trồng cây dong riềng và dùng nó để phòng ngừa bệnh mạch vành, bác sĩ Hoàng Sầm đã nhân giống một vườn ngay tại Viện Y học Bản địa Thái Nguyên và ông sẽ cấp giống miễn phí, hướng dẫn trồng và sử dụng dong riềng đỏ cho bất kỳ người dân nào có nhu cầu trồng để phòng bệnh và tự chữa bệnh.
Số điện thoại Bs. Hoàng Sầm: 0913 256 913
Theo Sống Khoẻ 

18 tháng 11 2015

Thanh lọc gan bằng trà gạo lứt rang

Theo các chuyên gia, uống nước gạo lứt rang (trà gạo lứt) rất tốt cho sức khỏe, đặc biệt rất hiệu quả trong việc thanh lọc gan.

Gạo lứt là gạo gì?

Gạo lứt, còn gọi là gạo rằn, gạo lật là loại gạo chỉ xay bỏ vỏ trấu, chưa được xát bỏ lớp cám gạo. Đây là loại gạo rất giàu dinh dưỡng đặc biệt là các sinh tố và nguyên tố vi lượng.

Thành phần của gạo lứt gồm chất tinh bột, chất đạm, chất béo, chất xơ cùng các vitamin như B1, B2, B3, B6, các axit như pantothenic (vitamin B5), paraaminobenzoic (PABA), folic (vitamin M), phytic, các nguyên tố vi lượng như canxi, sắt, magiê, selen, glutathion (GSH), kali và natri.

Trường hợp gạo trắng qua quá trình xay, giã, 67% vitamin B3, 80% vitamin B1, 90% vitamin B6, một nửa lượng mangan và hầu hết chất xơ bị mất đi.

Các chuyên gia dinh dưỡng cũng nhận thấy, một lon gạo lứt khi nấu thành cơm chứa 84mg magie, trong khi đó ở gạo trắng chỉ có 19mg.

Lớp cám của gạo lứt cũng chứa một chất dầu đặc biệt có tác dụng điều hòa huyết áp, làm giảm cholesterol xấu, giúp ngăn ngừa qua các bệnh tim mạch và rất tốt cho để thanh lọc gan...

Tác dụng thanh lọc gan cực tốt của nước gạo lứt rang

Trong gạo lứt chứa một hàm lượng chất dinh dưỡng cao và người mắc bệnh gan hay người bình thường sử dụng gạo lứt đều rất tốt cho cơ thể.

Lấy kinh nghiệm từ một bệnh nhân bị chai gan nặng nhưng đã được “tái sinh” thần kỳ nhờ uống nước gạo lứt rang, BS. Reneé Welhouse (Mỹ) đã áp dụng thử nghiệm cho những bệnh nhân khác với loại nước uống này.

Sau đó, bác sĩ đã thực hiện cuộc phân tích máu của một số người, kết quả thật bất ngờ: những người thanh lọc gan bằng nước gạo lứt có máu rất sạch, hồng huyết cầu rất tròn và huyết thanh rất trong.

Trong khi ở nơi những người khác, hồng huyết cầu một là méo mó, hai là đầy rẫy những độc tố và ký sinh trùng (Para-sites).

BS. Reneé Welhouse đã hướng dẫn các bệnh nhân cách sử dụng loại nước uống thần kỳ như sau:

Cách rang: Bạn có thể rang gạo lứt bằng bất cứ cách nào: dùng chảo, hoặc máy rang bắp (dùng máy thì chỉ 5 phút là được, nhưng chỉ áp dụng cho gạo lức tròn.

Nếu gạo lứt dài thì phải rang bằng chảo). Bạn muốn rang cho gạo có màu vàng đậm, hay màu nâu, nâu xậm tùy ý, nhưng đừng rang cháy.

Cách nấu: Phương pháp nấu tiện và sạch nhất là dùng nồi và để lửa nhỏ.

- Bạn có thể nấu từ sáng tới tối hoặc nấu qua đêm. Nếu bạn nấu nồi trên bếp thì nước không trong, nhìn đục như nước cơm vậy: Không đẹp mắt.

TIN TÀI TRỢ

- Một nồi nước (tương đương với 1 phích nước) bạn có thể cho 3-5 muỗng gạo lứt rang (tùy người thích uống đậm hay không), đun khoảng 15 phút cho gạo nở hết ra là có thể uống được.

Cách uống: Nên uống thay thói quen uống nước trà. Uống khi khát, uống bất cứ lúc nào. Nếu muốn uống nóng thì đổ vô bình thủy giữ nhiệt, rồi uống dần ngày đêm.

Tác dụng cho sức khỏe

- Không chỉ thanh lọc gan. Trà gạo lứt còn giúp cho bạn có nước da hồng hào sáng, đẹp, nhờ làm cho máu sạch, không chứa độc tố.

- Bớt hoặc không còn nhức mỏi mỗi khi trời lạnh. Cộng với chế độ ăn uống tốt thì giảm mập nhanh. Chữa dứt chứng táo bón kinh niên. Miệng, mồ hôi không còn mùi hôi thối. Trị nhức vai, mỏi xương sống.

- Uống trường kỳ, uống theo thói quen của người uống trà sẽ hết được bệnh “gao” (gout), chứng phong thấp của người già, một thứ bệnh khó chữa.

Cơ thể tăng sinh lực, không còn thấy uể oải hay mỏi mệt. Người lớn tuổi không còn bị đi tiểu đêm nhiều lần...

Chú ý: Lúc khởi sự uống nước gạo lứt, sau 3, 4 tuần, có một số người bình thường ít ăn rau, hoặc những người nhiều dương tính do thói quen ăn uống trước kia có thể sẽ cảm thấy nóng trong người, đôi khi có người còn bị lở miệng, nhưng đừng lo lắng, cứ việc uống tiếp tục vài ngày sẽ hết.

Sau đó cơ thể tự điều hòa trở lại bình thường.

BS. Reneé Welhouse cho biết, trước đây có một bệnh nhân ban đầu người này bị sạn mật quá nhiều, nên phải mổ để loại bỏ túi mật.

Nhưng rồi sau lại phát giác ra tình trạng gan của người ấy cũng có sạn nhiều, nên bệnh nhân lại được gởi đi gắp lấy sạn, tuy nhiên da mặt và mắt của bệnh nhân cứ ngày càng vàng ra, sức khỏe ngày một giảm sút, mệt mỏi và uể oải trong mọi sinh hoạt.

Cuối cùng bệnh viện cho hay, bệnh nhân đang ở trong tình trạng chai gan nặng, uống thuốc chỉ là cầm chừng chứ không thể chữa.

Nếu chịu giải phẫu để cắt gan thì có hy vọng kéo dài thời gian sống hơn, nhưng không bảo đảm sẽ khỏi hẳn. Do đó bệnh nhận từ chối giải phẫu.

Bẵng đi 3 năm sau, người này trở lại, bác sĩ Reneé nhận thấy da mặt ông ta hồng hào trở lại, không còn tình trạng vàng vọt như xưa. Bác sĩ cho khám lại thì gan đã được tái tạo một cách đáng ngạc nhiên.

Khi hỏi chuyện thì người đó cho hay: Do may mắn đọc được trang báo nói về tác dụng của việc uống nước gạo lức rang có thể lọc gan một cách hữu hiệu.

Ông này liền bỏ việc uống thuốc và ăn uống theo chế độ chay tịnh, rau trái nhiều hơn là thịt cá, uống nước gạo lức rang thay cho trà, cà phê, nước ngọt …

Sau vài tháng người này thấy có hiệu quả dần dần, tình trạng uể oải, mệt mỏi, biến mất lúc nào không hay.

Theo Sức khỏe & Gia đình