Hiển thị các bài đăng có nhãn BÁT CƯƠNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÁT CƯƠNG. Hiển thị tất cả bài đăng

12 tháng 9 2019

Phân chia âm dương với cơ thể người


Dương bốc lên
Âm hạ xuống
Dương hoạt động
Âm tĩnh lặng
Dương thường tràn đầy
Âm thường khuyết thiếu
Tà khí nhiễm vào phần thường lặng hơn
Khí mùa xuân vận hành về phương tây - Tả
Khí mùa hạ vận hành về phương bắc - Trước
Khí mùa hạ vận hành về phương đông - Hữu
Khí mùa hạ vận hành về phương nam- Sau

14 tháng 2 2017

Đau và mối liên quan đến Tạng


Âm Hán Việt:
Can bệnh hiếp thống
Tâm bệnh hung thống
Tỳ bệnh phúc chướng
Phế bệnh tí thống
Thận bệnh yêu thống
Dịch nghĩa:
Can bệnh đau cạnh sườn ( phải )
Tâm bệnh đau ở ngực
Tỳ bệnh bụng đầy chướng
Phế bệnh đau cánh tay
Thận bệnh đau ở lưng
( Sưu tầm từ tài liệu châm cứu của lương y - võ sư Nguyễn Tấn Xuân )


26 tháng 6 2016

Hư và thực với chính khí và tà khí

  Trong y văn của nhiều sách về Đông y có câu: Hư là chính khí hư, thực là tà khí thực.
Tại hạ là kẻ lơ mơ với nghề, hay lý luận dài dòng vòng vo mà diễn nghĩa từ ánh sáng loé lên trong suy nghĩ, mạo muội viết ra đây để lưu lại suy ngẫm, cũng như có chút ý kiến vậy. Mời các bậc cao minh hạ cố lướt xem và cho ý đàm đạo. Xin trân trọng thỉnh giáo ! 
Khi tà khí mới xâm phạm vào cơ thể chúng ta thì lúc đó là tà khí thực.
Chính khí của chúng ta vẫn mạnh mẽ, cơ thể tráng cường mà tà khí xâm phạm mà phát sinh bệnh thì đó là lúc tà khí thực mà chính khí chưa suy. Thường với trường hợp này y văn thường dùng từ thực chứng.
Khi tà khí xâm phạm và ẩn nấp trong cơ thể quá lâu khiến chính khí của ta bị thương tổn, ngày một suy yếu không hồi phục được thì dẫn tới chính khí hư. Trong y văn thường nói : phàm mắc bệnh đã lâu đều thuộc chứng hư cả.
Chính khí của ta hư yếu mà bất ngờ bị tà khí xâm phạm gây bệnh ngày một trầm trọng, vậy là tà khí thực và chính khí hư. Thường với trường hợp này y văn thường dùng từ hư chứng.
Chính khí của ta hư yếu mà tà khí xâm phạm cũng mức độ nhẹ, bệnh tình tiến lui giằng co vậy là chính khí hư yếu và tà khí cũng không bạo. Thường trường hợp này y văn cũng áp với từ hư chứng. 
Chính khí ta hư yếu mức độ phát ra triệu chứng tật bệnh mạn tính mặc dù không xuất hiện sự xâm phạm của tà khí ( có thể nguyên nhân khiến chính khí suy yêu ở đây là do lỗi của cơ thể như lỗi gen, cơ địa, bệnh bẩm sinh, làm việc, sinh hoạt, ăn uống không điều độ ... ). Thường trường hợp này y văn cũng quy vào hư chứng.

05 tháng 1 2016

Định hướng áp dụng phương pháp chữa cho bệnh nhân




Bài hai mươi tư ( huyết khí hình chí ) trong Hoàng Đế nội kinh đưa ra cương lĩnh cho việc định hướng áp dụng phương pháp chữa cho người bệnh như sau:

- Người có hình thể nhàn hạ nhưng tinh thần lại buồn khổ, bệnh phát sinh nhiều ở kinh mạch, khi chữa nên châm cứu.
- Người có hình thể an nhàn mà tinh thần vui vẻ, bệnh thường phát sinh ở cơ bắp, khi chữa dùng kim châm hoặc dùng kim đá để châm.
- Người có hình thể vất vả, nhưng tinh thần vui vẻ, bệnh thường phát sinh ở gân, khi chữa trị dùng cách chườm nhiệt hoặc dùng phương pháp đạo dẫn.
- Người có hình thể vất vả, tinh thần buồn rầu thì bệnh thường phát ở yết hầu, khi chữa trị nên dùng thuốc.
- Người luôn bị chịu những cơn khủng hoảng về tinh thần, kinh lạc có cơ chế khí bị loạn, không thông suốt, bệnh thường là tê liệt không còn cảm giác, khi chữa trị thích hợp dùng cách xoa bóp, bấm huyệt, kết hợp rượu thuốc.
..............................................................
Lời bàn của tại hạ: 
Có thể coi đây là định hướng cho pháp chữa chính, nhưng vẫn nên xem xét kết hợp dùng thuốc đông, tây, nam, y và kết hợp các phương pháp y học bổ sung như khí công y đạo, yoga, diện chẩn, thiền ...

08 tháng 7 2015

HƯ THỰC trong y hải cầu nguyên của Hải Thượng Lãn Ông



Y hải cầu nguyên / Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh
Thiên: HƯ THỰC

Tà khí mà xâm phạm vào được tất là do chính khí hư. Tà khí mà lưu lại không đi là bệnh thuộc thực. Nội kinh nói: hư là chính khí hư, thực là tà khí thực.

Chứng thực thì nói sảng, chứng hư thì nói lắp.

Phàm mọi bệnh ăn vào thì tạm yên, tất nhiên là chứng hư.

Người khỏe mạnh không có bệnh tích, người hư yếu thì có bệnh tích. ( tích o đây là tích trệ )

Thũng là chứng thực do ở huyết, phù là chứng thực do ở khí.

Chứng hư hai gò má đỏ là do âm hư ở dưới bức dương lên trên.

Bệnh ở ngoại vào phần nhiều là do chứng hữu dư, bệnh ở trong sinh ra phần nhiều là chứng bất túc.

Hữu dư là khách bệnh, bất túc là chủ bệnh.

Tổn thương do ăn uống là chứng hữu dư, tổn thương do làm lụng, nhọc mệt là chứng bất túc.

Chứng nhức đầu liên quan đến thực ( lục dâm tà khí xâm phạm, hỏa uất xong lên thì dùng phép giải biểu, thanh nhiệt ), chứng váng đầu liên quan đến hư ( nguyên dương suy yếu khiến âm hỏa bốc lên thì dùng phép trợ dương chế âm )

Tỳ hư thì sinh đi tả, vị hư thì sinh nôn mửa.

Tỳ hư thì phát nóng, vị hư thì sợ lạnh.

Bệnh ở tỳ phần nhiều là hư, bệnh ở vị phần nhiều là thực.

Hạ bộ hư thì quyết lạnh, thượng bộ hư thì choáng váng.

Cần xem xét nguồn gốc của bệnh khiến mất cân bằng cơ thể theo hướng phần nào hư ( âm, dương ) để luận hàn nhiệt cho đúng khi kê đơn thuốc.

Chứng rất thực nhưng có hiện tượng suy yếu nếu dùng lầm thuốc bổ sẽ sinh thêm bệnh. Bệnh rất hư nhưng có hiện tượng khỏe mà dùng lầm thuốc tả sẽ làm chết oan. Thà dùng lầm thuốc bổ mà bị thêm bệnh còn hơn dùng nhầm thuốc tả là hết cách chữa, ấy là ý dạy bảo của Lê Hữu Trác vậy.





04 tháng 7 2015

ÂM DƯƠNG trong Y hải cầu nguyên ( Hải Thượng Lãn Ông )

 

Y hải cầu nguyên
( sơ lược những điều căn bản ) 
Thiên thứ nhất: ÂM DƯƠNG

Dương là căn bản của sự sống
Âm là cơ sở của sự chết

Dương đạo thực âm đạo hư

Âm ở trong để giữ gìn cho dương
Dương ở ngoài để bảo vệ cho âm

Thần yên tĩnh thì âm sinh trưởng
Hình thể lao nhọc thì dương cang thịnh

Dương chứng phần nhiều hay mừng
Âm chứng phần nhiều hay giận

Dương suy không thở ra được
Âm suy không hít vào được

Dương bị bệnh thì không cúi xuống được
Âm bị bệnh thì không ngửa lên được

Dương thịnh thì trừng mắt 
Âm thịnh thì nhắm mắt

Dương thinh thì chảy máu mũi
Âm thịnh thì tiểu tiện khó đi

Bệnh dương thì đi lên, hết mức thi trở xuống
Bệnh âm thì đi xuống, hết mức lại trở lên

Dương khí không đưa lên được gọi là cách
Âm khí không giáng xuống được gọi là ế ( nghẹn )

Khí dương suy yếu phần trên thì thành hàn quyết
Khí âm suy yêu ở phần dưới thì thành nhiệt quyết

Bệnh thuộc âm phát chậm, khỏi chậm
Bệnh thuộc dương phát nhanh, khỏi nhanh

Bệnh ở phần dương thi buổi sáng yên
Bệnh về phần âm thi ban đêm yên

Chứng dương hư thì nặng về buổi tối
Chứng âm hư thì nặng về buổi mai

Dương không đầy đủ thì hàn thấp ngưng đọng
Âm không đầy đủ thì hỏa nhiệt bốc sôi

Âm hư không thắng được dương thi mạch nhanh và mạnh, dồn lại thi phát cuồng
Dương hưu không thắng được âm thì năm tạng tranh nhau mà chín khiếu chẳng thông

Dương hư sinh ngoại hàn
Âm hư sinh nội nhiệt

Dương thịnh sinh nóng ở ngoài
Âm thịnh sinh lạnh ở trong

Phát sốt sợ lạnh là chứng ở phần dương
Không sốt sợ lạnh là chứng ở phần âm

Nóng rét qua lại là âm dương tranh thắng
Dương không đầy đủ thì rét trước nóng sau
Âm không đầy đủ thì nóng trước rét sau

Dương tác hoá nhiệt, nhiệt thì hại khí 
Âm tà hoá hàn, hàn thì hại hình

Dương bốc vượt lên thi nóng tựu phát ra
Âm suy yếu sinh chứng đổ mồ hôi trộm

Khí âm lấn len vào phần dương thì sợ lạnh
Khí dương hãm xuống vào phần âm thi phát nóng

Dương sinh nhiệt, nhiệt thì nới giãn
Âm sinh hàn, hàn thi co rút

Khí dương quá thừa thì minh nóng không có mồ hôi
Khí am quá thừa thì mình rét mồ hôi ra nhiều

Âm hư cực độ thì dương phát quyết lạnh
Dương hư cực độ thì am táo

Khí âm ít, khí dương nhiều nên mình nóng đầy và bực bội
Khí dương ít, khí âm nhiều nên mình rét lạnh như ơn trong nước ra

Tự đổ mồ hôi là chưng dương hư
Đổ mồ hôi trộm là chứng âm hư

Mồ hôi nóng thuộc dương
Mồ hôi lạnh thuộc âm

Tà vào trong dương thì phát cuồng
Tà vào trong âm thì phát tê

Tà va chạm với dương thi phát điên
Tà va chạm với âm sinh ra câm

Dương nhập vào âm thì yên tĩnh
Âm xuất ra dương thì giận dữ

 Bệnh âm phát ở xương
Bệnh dương phát ở thịt

Sốt sợ lạnh, chứng từ dương
Không sốt sợ lạnh, chứng từ âm

Bệnh dương phát về mùa đông
Bệnh âm phát về mùa hè

Âm không thắng dương, mạch nhanh mạnh
Dương không thắng âm, tắc chín khiếu

Dương thiếu rét trước, nóng sau
Âm thiếu nóng trước, rét sau





02 tháng 10 2014

Cơ chế về sự phát sinh, phát triển và biến hóa của bệnh tật theo HOÀNG ĐẾ NỘI KINH


19 điều về bệnh cơ ( cơ chế sinh và biến hóa của bệnh ) trong sách “ Tố Vấn thiên Chí chân yếu đại luận “. Trong đó có 13 điều về lục dâm tác động vào cơ thể, 6 điều do ngũ tạng rối loạn.

1/ CHƯ PHONG TÁC HUYỀN, GIAI THUỘC VU CAN
Các bệnh do nội phong gây nên đầu váng mắt hoa, chân tay máy giật, đều là bệnh của can.

2/ CHƯ HÀN THU DẪN, GIAI THUỘC VU THẬN
Các bệnh do âm hàn thịnh ở lý gây nên cân mạch co cấp, khớp co duỗi khó khăn, chân tay lạnh ... đều là bệnh biến của thận.

3/ CHƯ KHÍ PHẪN UẤT, GIAI THUỘC VU PHẾ
Các bệnh khí cơ ở thượng tiêu không lợi gây nên thở gấp, trong ngực ách tắc, đều là bệnh biến của phế.

4/ CHƯ THẤP THŨNG MÃN, GIAI THUỘC VU TỲ
Các bệnh về thủy thấp ngưng đọng gây nên các chứng phù thũng, trướng mãn, đều là bệnh biến của tỳ.

5/ CHƯ THỐNG DƯỠNG SANG, GIAI THUỘC VU TÂM
Các mụn loét ở da gây nên các chứng sốt, đau, ngứa, đều do tâm hỏa thịnh, huyết nhiệt gây nên.

6/ CHƯ NHIỆT MẬU KHIẾT, GIAI THUỘC VU HỎA
Các bệnh nhiệt có chứng thần chí hôn mê, co giật đều là hỏa chứng.

7/ CHƯ QUYẾT CỐ TIẾT, GIAI THUỘC VU HẠ
Các chứng hậu quyết nghịch, táo bón, tiết tả ( ỉa chảy ), đều là bệnh biến của hạ tiêu.

8/ CHƯ NUY SUYỄN ẨU, GIAI THUỘC VU THƯỢNG
Các chứng bệnh phế nuy, khí suyễn, nôn mửa ... đều là bệnh do thượng tiêu ( tạng phế ) gây nên.

9/ CHƯ CẤM, CỔ, PHIÊU NHƯ SUY THẦN THỦ, GIAI THUỘC VU HỎA
Các chứng cấm khẩu, rét run, răng va lập cập, thần chí bất thường ở bệnh nhiệt, đều là hỏa chứng.

10/ CHƯ KÍNH HẠNH CƯỜNG, GIAI THUỘC VU THẤP
Các chứng người cứng, cổ gáy cứng quay trở khó khăn, đều là thấp chứng ( do thấp trọc làm tổn thương kinh mạch gây nên ).

11/ CHƯ NGHỊCH XUNG THƯỢNG, GIAI THUỘC VU HỎA
Các chứng khí nghịch thượng xung như nấc có tiếng rõ, to, nôn vọt ra ... đều là hỏa chứng.

12/ CHƯ PHÚC TRƯỚNG ĐẠI, GIAI THUỘC VU HỎA
Bụng căng cứng, đau ( táo bón, đái ít, miệng đắng, phiền nhiệt ), đều là nhiệt chứng.

13/ CHƯ THAO CUỒNG VIỆT, GIAI THUỘC VU HỎA
Các chứng thao cuồng, múa may lung tung, đều là hỏa chứng.

14/ CHƯ BAO CƯỜNG TRỰC, GIAI THUỘC VU PHONG
Các chứng đột nhiên căng cứng co giật đều là phong chứng.

15/ CHƯ BỆNH HỮU THANH, CỔ CHÍ NHƯ CỔ, GIAI THUỘC VU NHIỆT
Các chứng bụng căng chướng, bụng sôi, gõ bụng kêu như gõ trống, đều là nhiệt chứng.

16/ CHƯ BỆNH PHÙ THŨNG, ĐÔNG TOAN KINH HÃI, GIAI THUỘC VU HỎA
Hai bàn chân sưng nề và đau nhức, tâm thần không yên, hay kinh hãi, đều thuộc hỏa chứng.

17/ CHƯ CHUYỂN PHẢN LỆ, THỦY DỊCH HỖN TRỌC, GIAI THUỘC VU NHIỆT
Các chứng chuột rút, uốn ván, chân tay cứng đờ có nước tiểu vẫn đục, đều thuộc nhiệt chứng.

18/ CHƯ BỆNH THỦY DỊCH, ĐĂNG TRIỆT THANH LÃNG, GIAI THUỘC VU HÀN
Thể dịch tiết ra ngoài nếu trong, loãng, lạnh đều là hàn chứng.

19/ CHƯ ẨU THỔ TOAN, BẠO CHÚ HẠ BÁCH, GIAI THUỘC VU NHIỆT
Các chất nôn ra có vị chua, ỉa chảy phọt ra và có lý cấp hậu ( mót rặn ), dều là nhiệt chứng.


22 tháng 5 2014

BÁT CƯƠNG


QUY TRÌNH SỐ 6 
theo Quyết định số: 26 /2008/QĐ-BYT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
CHẨN ĐOÁN BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN ( Tám cương lĩnh )
I. ĐẠI CƯƠNG
Chẩn đoán y học cổ truyền là một mắt xích quan trọng trong chuỗi mắt xích thăm khám lâm sàng, chẩn đoán và điêù trị góp phần đáng kể vào kết quả trị liệu. Quá trình chẩn đoán được thực hiện tiếp sau các bước thăm khám lâm sàng. (Tứ chẩn: Vọng, Văn, Vấn, Thiết) và làm nền tảng cho mắt xích điều trị và dự phòng. Để công vệc chẩn đoán được chính xác đòi hỏi mắt xích khám lâm sàng (tứ chẩn) phải chính xác và đầy đủ không bỏ sót và bỏ qua bất cứ khâu nào, đồng thời cần tôn trọng tính khách quan trong quá trình thăm khám, dữ liệu thông tin về bệnh tật.
Để có một kết quả chẩn đoán đúng hợp lý và logic cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của quy trình chẩn đoán, nắm chắc cương lĩnh của bát cương nói riêng và hệ thống lý luận của y học cổ truyền nói chung đặc biệt là lý luận học thuyết âm dương và ngũ hành, bởi nó xuyên suốt toàn bộ lĩnh vực y học cổ truyền từ sinh lý, bệnh lý đến thăm khám lâm sàng, chẩn đoán, điều trị và dự phòng.
II. CÁC BƯỚC CHUẨN BỊ
Để đảm bảo cho việc chẩn đoán được chính xác đầy đủ không bỏ sót cần tuân thủ các quy trình sau:
1. Xem và đọc kỹ các thông tin thu được từ việc khám bệnh.
Việc xem xét và thẩm định kỹ các thông tin (triệu chứng) thu đươc từ việc thăm khám là công việc quan trọng và cần thiết, bởi trên cơ sở của việc làm này sẽ giúp thầy thuốc thiết lập các mối liên hệ từ các thông tin rời rạc thành một hệ thống các thông tin có mối liên hệ với nhau tạo nên các hội chứng bệnh lý qua đó giúp thầy thuốc hướng đến việc lựa chọn một chẩn đoán phù hợp nhất và giúp cho việc chẩn đoán loại trừ.
2. Cần nắm vững tám cương lĩnh chẩn đoán (bát cương).
Nội dung tám cương lĩnh giúp cho các thầy thuốc trong khi chẩn đoán cần phải chỉ ra đươc vị trí nông sâu, tính hàn nhiệt, trạng thái hư thực và xu thế chung của bệnh thuộc âm hay dương, từ đó giúp cho viêc chẩn đoán nguyên nhân và đề ra các phương pháp chữa bệnh chính xác.
Nội dung của tám cương lĩnh đó là:
2.1. Biểu và lý
Biểu và lý là hai cương lĩnh chỉ vị trí nông sâu của bệnh tật, giúp đánh giá tiên lượng và đề ra phương pháp chữa bệnh thích hợp: bệnh ở biểu thì dùng phép hãn, bệnh ở lý thì dùng phép thanh, hạ, ôn, bổ…
2.1.1. Biểu chứng: Bệnh ở biểu là ở nông, ở ngoài, ở gân, xương, cơ nhục, kinh lạc, bệnh cảm mạo và bệnh truyền nhiễm ỏ thời kỳ đầu y học cổ truyền gọi là phần vệ, tương ứng với y học hiện đại là viêm long và khởi phát.
- Các biểu hiện lâm sàng của biểu chứng: phát sốt, sợ gió, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng mỏng, đau đầu, đau mình, ngạt mũi, ho, mạch phù.
2.1.2. Lý chứng: Lý là bệnh ở bên trong, ở sâu thường là các bệnh thuộc câc tạng phủ, bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng (ôn bệnh) ở giai đoạn toàn phát (tà khí đã vào phần khí, dinh và huyết)
- Các biểu hiện lâm sàng của lý chứng: sốt cao, khát, mê sảng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, nước tiểu ít sắc đỏ, táo bón hay ỉa chảy, nôn mửa, đau bụng, mạch trầm…
Biểu và lý còn kết hợp với các cương lĩnh khác như hư, thực, hàn, nhiệt và sự lẫn lộn giữa biểu lý.
2.2. Hàn và nhiệt
Hàn và nhiệt là hai cương lĩnh dùng để đánh giá tính chất của bệnh giúp cho thầy thuốc chẩn đoán loại hình của bệnh là hàn hay nhiệt để đề ra phương pháp chữa bệnh hợp lý (Bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn, nhiệt thì châm, hàn thì cứu).
2.2.1. Hàn chứng: Sợ lạnh, thích ấm, miệng nhạt, không khát, sắc mặt xanh trắng, chân tay lạnh, nước tiểu trong dài, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng (biểu hàn) trắng dày (lý hàn), mạch trrầm trì (lý hàn) hoặc phù khẩn (biểu hàn).
2.2.2. Nhiệt chứng: Sốt, thích mát, mặt đỏ, tay chân nóng, tiểu tiện ít đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô (vàng mỏng là biểu nhiệt, vàng dày là lý nhiệt), mạch sác (phù sác là biểu nhiệt, hồng sác là lý nhiệt).
Hàn chứng thường thuộc âm thịnh, nhiệt chứng thường thuộc dương thịnh. Hàn nhiệt còn phối hợp với các cương lĩnh khác, lẫn lộn với nhau, thật giả lẫn nhau.
2.3. Hư và Thực
Hư và thực là hai cương lĩnh dùng để đánh giá trạng thái người bệnh và tác nhân gây bệnh để trên cơ sở đó đề ra phương pháp chữa bệnh.
2.3.1 Hư chứng: Hư chứng là biểu hiện của chính khí (bao gồm các mặt: âm, dương, khí, huyết) suy nhược nên trên lâm sàng biểu hiện hư suy: âm hư, dương hư, khí hư và huyết hư. Do có hiện tượng hư nhược nên phản ứng của cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh bị giảm sút.
Những biểu hiện chính của hư chứng trên lâm sàng: bệnh thường mắc đã lâu, tinh thần yếu đuối, mệt mỏi, không có sức, sắc mặt trắng, người gầy, thở ngắn, hồi hộp đi tiểu luôn hoặc không tự chủ, tự ra mồ hôi (tự hãn) hoặc ra mồ hôi trộm (đạo hãn), chất lưỡi nhạt, mạch tế…
2.3.2. Thực chứng: Thực chứng là do cảm phải ngoại tà hay do khí trệ, huyết ứ, đàm tích, ứ nước, giun sán gây bệnh.
Những biểu hiện của thực chứng tên lâm sàng: bệnh thường mới mắc, ngực bụng đầy chướng, đau cự án, đại tiện táo bón, mót rặn, đại tiện bí, đái buốt, đái dắt, hơi thở thô và mạnh, phiền táo, rêu lưỡi vàng, mạch thực, hữu lực…
2.4. Âm và dương
Âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát để đánh giá xu thế phát triển bệnh và những hiện tưọng hàn, nhiệt, hư, thực luôn luôn phối hợp và lẫn lộn với nhau.
Sự mất thăng bằng âm dương biểu hiện bằng sự thiên thắng (âm thịnh, dương thịnh) hay thiên suy (âm hư, dương hư, vong âm, vong dương).
2.4.1. Âm chứng và dương chứng:
- Âm chứng thường bao gồm các hội chứng hư và hàn phối hợp với nhau.
- Dương chứng thường bao gồm các hội chứng thực và nhiệt phối hợp với nhau.
2.4.2. Âm hư và dương hư:
- Âm hư: thường do tân dịch, huyết không đầy đủ làm cho phần dương nổi lên sinh ra chứng hư nhiệt “âm hư sinh nội nhiệt”: triều nhiệt, đau nhức trong xương, gò má đỏ, đạo hãn, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô, họng khô, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác…
- Dương hư: thường do công năng (phần dương) trong cơ thể giảm sút đặc biệt là vệ khí suy làm cho phần âm vượt trội sinh chứng “dương hư sinh ngoại hàn”: sợ lạnh, chân tay lạnh, ăn không tiêu, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài, lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch nhược vô lực…
2.4.3. Vong âm vong dương:
- Vong âm: Là hiện tượng mất nước do ra mồ hôi hoặc ỉa chảy nhiều: khát thích uống nước lạnh, chân tay ấm, mồ hôi nóng và mặn không dính, lưỡi khô, mạch phù vô lực v.v…
- Vong dương: là kết quả của sự vong âm đến giai đoạn nào đó sẽ gây vong dương xuất hiện choáng, truỵ mạch còn gọi là “thoát dương”: người lạnh, tay chân lạnh, mồ hôi lạnh nhạt dính, không khát thích uống nước nóng, lưỡi nhuận, mạch vi muốn tuyệt v.v…
3, Cần nắm vững được sự phối hợp của các cương lĩnh, hiện tượng chân giả, bán biểu bán lý
3.1. Sự phối hợp giữa các cương lĩnh
3.1.1. Biêu lý hàn nhiệt:
- Biểu hàn: Sợ lạnh nhiều, sốt ít, đau người, không có mồ hôi, trời lạnh bệnh tăng lên, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn…
- Biểu nhiệt: Sợ lạnh ít, sốt nhiều, miệng hơi khát, lưỡi đỏ rêu vàng mỏng, mạch phú sác…
- Lý hàn: Người lạnh, tay chân lạnh, đại tiện lỏng, tiểu tiện trong dài, lưỡi nhạt bệu, rêu trắng dày, mạch trầm trì…
- Lý nhiệt: Người nóng, mặt đỏ, miệng khô khát, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dày, đại tiện táo, tiểu vàng, mạch sâc…
3.1.2. Biểu lý hư thực:
- Biểu hư: Sợ gió, tự ra mồ hôi, rêu lưỡi mỏng, mạch phù hoãn…
- Biểu thực: Sợ lạnh, sợ gió, đau mình, không có mồ hôi, rêu mỏng, mạch phù hữu lực…
- Lý hư, lý thực (xem phần bát cương)
3.2. Sự lẫn lộn (thác tạp) giữa các cương lĩnh
- Biểu lý lẫn lộn: Vừa có bệnh ở biểu vừa có ở lý
- Hàn nhiệt lẫn lộn: Bệnh vừa có chứng hàn vừa có chứng nhiệt
- Hư thực lẫn lộn: Bệnh vừa có cả hư vừa có cả thực
3.3. Hiện tượng chân giả
Là hiện tượng triệu chứng bệnh xuất hiện không phù hợp với bản chất, với nguyên nhân của bệnh. Có hai hiện tượng sau:
3.3.1. Chân hàn giả nhiệt: Bản chất của bệnh là hàn (chân hàn) nhưng biểu hiện ra bên ngoài là các triệu chứng thuộc về nhiệt (giả nhiệt). Ví dụ đau bụng ỉa chảy do lạnh (chân hàn) gây mất nước, mất điện giải dẫn đến sôt cao (giả nhiệt).
3.3.2. Bệnh nhiệt giả hàn: Nhiễm trùng gây sốt cao, vật vã, khát nước (chân nhiệt) bệnh diễn biến nặng gây sốc nhiễm trùng rét run, mạch nhanh tay chân lạnh, vã mồ hôi, huyết áp tụt (giả hàn).
3.4. Hiện tượng bán biểu bán lý: Bệnh tà không ở biểu mà cũng không ở lý, bệnh thuộc kinh thiếu dương, lúc nóng, lúc rét.