Hiển thị các bài đăng có nhãn TỨ CHẨN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TỨ CHẨN. Hiển thị tất cả bài đăng

14 tháng 2 2017

Đau và mối liên quan đến Tạng


Âm Hán Việt:
Can bệnh hiếp thống
Tâm bệnh hung thống
Tỳ bệnh phúc chướng
Phế bệnh tí thống
Thận bệnh yêu thống
Dịch nghĩa:
Can bệnh đau cạnh sườn ( phải )
Tâm bệnh đau ở ngực
Tỳ bệnh bụng đầy chướng
Phế bệnh đau cánh tay
Thận bệnh đau ở lưng
( Sưu tầm từ tài liệu châm cứu của lương y - võ sư Nguyễn Tấn Xuân )


11 tháng 10 2015

Tứ chẩn chữ Hán


TỨ CHẨN PHÁP
Tứ chẩn: vọng ( nhìn ),  văn (nghe ngửi ), vấn ( hỏi ),  thiết ( sờ )
- Vọng chẩn: nhất vọng thần, nhị vọng sắc, tam vọng hình, tứ vọng mục ( mắt ) , ngũ vọng môi, lục vọng mũi, thất vọng thiệt ( lưỡi ), bát vọng bì ( bì phu ).
- Văn chẩn: thính ( nghe) chẩn, ngửi chẩn
- Vấn chẩn ca: nhất vấn hàn nhiệt nhị vấn hãn, tam vấn ẩm thực tứ vấn tiện, ngũ vấn đầu mình lục nhãn lung ( mắt tai ), thất vấn miên mộng ( ngủ nghỉ )  bát vất dục, cửu vấn cựu bệnh thập vấn nhân ( nguyên nhân ), tiểu nhi dưỡng phòng thiên sinh bệnh, phụ nhân vấn gia ( thêm)  kinh đới sản, lão vấn tình chí mạn tính bệnh.
- Thiết chẩn: thiết mạch chẩn, phúc chẩn, xúc chẩn
- Thiết mạch chẩn: hai mươi bẩy mạch, phù khâu hoạt thực huyền khẩn hồng, trầm trì vi hoãn nhu nhược sáp phục, tế sác kết tán đợi động hư cách xúc, trường đoản đại.
( Ất mùi năm, Kim Văn Đại Kim Hoàng Mai Hà Nội Việt Nam quốc / Trần Minh Hộ ) 


23 tháng 9 2015

Mạch lý cơ bản chữ Hán


Mạch lý cơ bản
- Hai mươi bảy mạch:
Thất biểu: phù khâu hoạt thực huyền khẩn hồng
Bát lý: trầm trì vi hoãn nhu nhược sáp phục
Cửu đạo: tế sác kết tán đợi động hư cách súc
Tam mạch: trường đoản đại 
- Mạch tạng: 
Tâm mạch hồng
Can mạch huyền
Tỳ mạch hoà hoãn
Phế mạch phù sáp
Thận mạch trầm
Mệnh môn mạch phù thực
- Mạch tứ thời ( theo mùa ):
Mùa xuân mạch hơi huyền
Mùa hạ mạch hơi hồng
Mùa thu mạch mao ( hơi phù vi )
Mùa đông mạch thạch ( hơi trầm thực )
- Tam chẩn mạch:
Phù xem bệnh ở biểu
Trung xem mạch vị khí 
Trầm xem bệnh ở lý 
- Vị trí chẩn mạch:
Tại huyệt thái uyên
Tay trái có thốn quan xích tương ứng với tạng Tâm Can Thận ( với phụ nữ vị trí xích tay trái tương ứng với mệnh môn )
Tay phải có thôn quan xích tương ứng với tạng Phế Tỳ Mệnh môn ( với phụ nữ vị trí xích tay phải tương ứng với tạng thận )
( ngày 11 tháng 8 năm ất mùi 2015 / người viết Trần Minh Hộ tại Kim Văn, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội, Việt Nam )

04 tháng 9 2015

Bài ca tên mạch




BÀI CA TÊN MẠCH
Phù khâu hoạt thực huyền khẩn hồng ( thất biểu )
Trầm trì vi hoãn nhu nhược sáp ... phục ( bát lý )
Tế sác kết tán đợi động hư ... cách xúc ( cửu đạo )
Trường đoản đại ...                                ( tam mạch ) 



08 tháng 7 2015

HƯ THỰC trong y hải cầu nguyên của Hải Thượng Lãn Ông



Y hải cầu nguyên / Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh
Thiên: HƯ THỰC

Tà khí mà xâm phạm vào được tất là do chính khí hư. Tà khí mà lưu lại không đi là bệnh thuộc thực. Nội kinh nói: hư là chính khí hư, thực là tà khí thực.

Chứng thực thì nói sảng, chứng hư thì nói lắp.

Phàm mọi bệnh ăn vào thì tạm yên, tất nhiên là chứng hư.

Người khỏe mạnh không có bệnh tích, người hư yếu thì có bệnh tích. ( tích o đây là tích trệ )

Thũng là chứng thực do ở huyết, phù là chứng thực do ở khí.

Chứng hư hai gò má đỏ là do âm hư ở dưới bức dương lên trên.

Bệnh ở ngoại vào phần nhiều là do chứng hữu dư, bệnh ở trong sinh ra phần nhiều là chứng bất túc.

Hữu dư là khách bệnh, bất túc là chủ bệnh.

Tổn thương do ăn uống là chứng hữu dư, tổn thương do làm lụng, nhọc mệt là chứng bất túc.

Chứng nhức đầu liên quan đến thực ( lục dâm tà khí xâm phạm, hỏa uất xong lên thì dùng phép giải biểu, thanh nhiệt ), chứng váng đầu liên quan đến hư ( nguyên dương suy yếu khiến âm hỏa bốc lên thì dùng phép trợ dương chế âm )

Tỳ hư thì sinh đi tả, vị hư thì sinh nôn mửa.

Tỳ hư thì phát nóng, vị hư thì sợ lạnh.

Bệnh ở tỳ phần nhiều là hư, bệnh ở vị phần nhiều là thực.

Hạ bộ hư thì quyết lạnh, thượng bộ hư thì choáng váng.

Cần xem xét nguồn gốc của bệnh khiến mất cân bằng cơ thể theo hướng phần nào hư ( âm, dương ) để luận hàn nhiệt cho đúng khi kê đơn thuốc.

Chứng rất thực nhưng có hiện tượng suy yếu nếu dùng lầm thuốc bổ sẽ sinh thêm bệnh. Bệnh rất hư nhưng có hiện tượng khỏe mà dùng lầm thuốc tả sẽ làm chết oan. Thà dùng lầm thuốc bổ mà bị thêm bệnh còn hơn dùng nhầm thuốc tả là hết cách chữa, ấy là ý dạy bảo của Lê Hữu Trác vậy.





07 tháng 7 2015

KHÍ HUYẾT trong Y hải cầu nguyên của Hải Thượng Lãn ông


Y hải cầu nguyên ( Hải Thượng Lãn ông / Y tông tâm lĩnh ) 
Thiên:  KHÍ HUYẾT 

Khí làm hướng đạo cho huyết.

Huyết là ngọn của khí, khí là gốc của huyết.

Huyết là tinh của thủy cốc, lớp lớp hoá sinh ra, song thực tế là nó sinh hoa sở tỳ, thống quản ở Tâm, tàng trữ ở Can, gạn lọc ở Thận và tưới tắm cho toàn thân.

Thanh khí ở dưới thì sinh ra ỉa chảy, trọc khí ở trên thì sinh ra đầy trướng.

Khí không có thủy không hoá được, tinh không có khi không vận hành được.
( tuyên thông phế khí với thông điều thủy đạo là hai chủ tính của tạng phế và tạng thận liên quan đến nhau ).

Phế đưa khí ra, thận thu khí vào, cho nên phế chủ khí, thận là gốc của khí.

Khí huyết không điều hoà thì ngưng kết lại mà làm ung nhọt.

Người ta khi nằm thì huyết trở về can.

Khí không có huyết thì khí tán mà không có sự thống quản
Huyết mà không có khí thì huyết ngưng lại mà chẳng lưu thông.

Tỳ vị là cha của khí huyết, tâm thận là mẹ của khí huyết, can phế là nơi cư trú của khí huyết.

Khí huyết con người cũng nhu nguồn suối, nhiều thì chảy khắp, ít thì ưa trệ, cho nén khí thịnh thì không ứ trệ.

Vinh huyết hư thì tê dại
Vệ khí hư thi không cử động

Khí bị hư thì tê dại. huyết bị hư thì cứng đờ ( ngoài da bị đau là tê dại, trong gân không mềm dẻo là cứng đờ ).

Khí bị hư thì đau, huyết bị hư thì sưng. ( khí thuộc hỏa, hình thuộc huyết, đau thì tổn thương khí, sưng thì tổn thương huyết )

Huyết thực khí hư thì thể vóc dễ béo, khí thực huyết hư thì thể vóc dễ gầy.

Bệnh khát thường phát sinh ở huyết hư.

Trung khí không đầy đủ thì nước giải biến màu.

Khí thượng bộ không đầy đủ thi đầu ngả nghiêng, mắt bị lác.

Khí hư không liễm nạp được nguyên dương ở trung cung, huyết hư không tiếp nhận được thận hỏa ( Long hỏa ) ở hạ tiêu, đều là chứng nhiệt.

Khí thịnh mà người lạnh là do thương hàn, khí hư mà người nóng là do thương thử.

Huyết suy thì hình thể liệt yếu, huyết bại thi hình thể hủy hoại, cho nên xương cốt có chỗ nào hư yếu thì thấy ngay bại liệt một bên.

Huyết có thừa thì hay giận, huyết không đủ thi hay sợ.

Khí có thừa tức là hoả, khí không đủ tức là hàn.

Mửa thời hại khí, xổ thời hao huyết
Khí hư thì hồi hộp đánh trống ngực, huyết hư thì hay kinh sợ.

Trong huyết không có khi thì bệnh thấy buông xuôi rã rời, trong khí không có huyết thì bệnh thấy co quắp run giật.

Khí thực thì nhiệt, khí hư thì hàn.

Khí nhiều thì huyết dễ đưa lên, huyết ít thì hỏa dễ bốc  cháy.

Đại trường có huyết thì nhuận, mất huyết thì táo.

Bị mất huyết thi không có mồ hôi
Bị mất mồ hôi thì không có huyết.

Khí thoát thì mắt không sáng.

Huyết thoát thi sắc mặt trắng bợt mà không nhuần nhã. Khí hư thì sắc trắng bệch có vẻ trong và nổi gân trơ xương trông có vẻ hàn lạnh. Huyết hư thì sắc trắng khô có vẻ đục như màu thiếc, màu tro, có thể tưởng tượng là nhợt nhạt.

Khí hành thì huyết hành, dương vong thì âm cũng thoát, âm vong thì dương cũng bại.

Chính khí với tà khí không thể đứng chung nhau, phải có một thắng một bại.

Bách bệnh đều không nằm ngoài phạm vi âm dương khí huyết.













04 tháng 7 2015

ÂM DƯƠNG trong Y hải cầu nguyên ( Hải Thượng Lãn Ông )

 

Y hải cầu nguyên
( sơ lược những điều căn bản ) 
Thiên thứ nhất: ÂM DƯƠNG

Dương là căn bản của sự sống
Âm là cơ sở của sự chết

Dương đạo thực âm đạo hư

Âm ở trong để giữ gìn cho dương
Dương ở ngoài để bảo vệ cho âm

Thần yên tĩnh thì âm sinh trưởng
Hình thể lao nhọc thì dương cang thịnh

Dương chứng phần nhiều hay mừng
Âm chứng phần nhiều hay giận

Dương suy không thở ra được
Âm suy không hít vào được

Dương bị bệnh thì không cúi xuống được
Âm bị bệnh thì không ngửa lên được

Dương thịnh thì trừng mắt 
Âm thịnh thì nhắm mắt

Dương thinh thì chảy máu mũi
Âm thịnh thì tiểu tiện khó đi

Bệnh dương thì đi lên, hết mức thi trở xuống
Bệnh âm thì đi xuống, hết mức lại trở lên

Dương khí không đưa lên được gọi là cách
Âm khí không giáng xuống được gọi là ế ( nghẹn )

Khí dương suy yếu phần trên thì thành hàn quyết
Khí âm suy yêu ở phần dưới thì thành nhiệt quyết

Bệnh thuộc âm phát chậm, khỏi chậm
Bệnh thuộc dương phát nhanh, khỏi nhanh

Bệnh ở phần dương thi buổi sáng yên
Bệnh về phần âm thi ban đêm yên

Chứng dương hư thì nặng về buổi tối
Chứng âm hư thì nặng về buổi mai

Dương không đầy đủ thì hàn thấp ngưng đọng
Âm không đầy đủ thì hỏa nhiệt bốc sôi

Âm hư không thắng được dương thi mạch nhanh và mạnh, dồn lại thi phát cuồng
Dương hưu không thắng được âm thì năm tạng tranh nhau mà chín khiếu chẳng thông

Dương hư sinh ngoại hàn
Âm hư sinh nội nhiệt

Dương thịnh sinh nóng ở ngoài
Âm thịnh sinh lạnh ở trong

Phát sốt sợ lạnh là chứng ở phần dương
Không sốt sợ lạnh là chứng ở phần âm

Nóng rét qua lại là âm dương tranh thắng
Dương không đầy đủ thì rét trước nóng sau
Âm không đầy đủ thì nóng trước rét sau

Dương tác hoá nhiệt, nhiệt thì hại khí 
Âm tà hoá hàn, hàn thì hại hình

Dương bốc vượt lên thi nóng tựu phát ra
Âm suy yếu sinh chứng đổ mồ hôi trộm

Khí âm lấn len vào phần dương thì sợ lạnh
Khí dương hãm xuống vào phần âm thi phát nóng

Dương sinh nhiệt, nhiệt thì nới giãn
Âm sinh hàn, hàn thi co rút

Khí dương quá thừa thì minh nóng không có mồ hôi
Khí am quá thừa thì mình rét mồ hôi ra nhiều

Âm hư cực độ thì dương phát quyết lạnh
Dương hư cực độ thì am táo

Khí âm ít, khí dương nhiều nên mình nóng đầy và bực bội
Khí dương ít, khí âm nhiều nên mình rét lạnh như ơn trong nước ra

Tự đổ mồ hôi là chưng dương hư
Đổ mồ hôi trộm là chứng âm hư

Mồ hôi nóng thuộc dương
Mồ hôi lạnh thuộc âm

Tà vào trong dương thì phát cuồng
Tà vào trong âm thì phát tê

Tà va chạm với dương thi phát điên
Tà va chạm với âm sinh ra câm

Dương nhập vào âm thì yên tĩnh
Âm xuất ra dương thì giận dữ

 Bệnh âm phát ở xương
Bệnh dương phát ở thịt

Sốt sợ lạnh, chứng từ dương
Không sốt sợ lạnh, chứng từ âm

Bệnh dương phát về mùa đông
Bệnh âm phát về mùa hè

Âm không thắng dương, mạch nhanh mạnh
Dương không thắng âm, tắc chín khiếu

Dương thiếu rét trước, nóng sau
Âm thiếu nóng trước, rét sau





02 tháng 10 2014

Cơ chế về sự phát sinh, phát triển và biến hóa của bệnh tật theo HOÀNG ĐẾ NỘI KINH


19 điều về bệnh cơ ( cơ chế sinh và biến hóa của bệnh ) trong sách “ Tố Vấn thiên Chí chân yếu đại luận “. Trong đó có 13 điều về lục dâm tác động vào cơ thể, 6 điều do ngũ tạng rối loạn.

1/ CHƯ PHONG TÁC HUYỀN, GIAI THUỘC VU CAN
Các bệnh do nội phong gây nên đầu váng mắt hoa, chân tay máy giật, đều là bệnh của can.

2/ CHƯ HÀN THU DẪN, GIAI THUỘC VU THẬN
Các bệnh do âm hàn thịnh ở lý gây nên cân mạch co cấp, khớp co duỗi khó khăn, chân tay lạnh ... đều là bệnh biến của thận.

3/ CHƯ KHÍ PHẪN UẤT, GIAI THUỘC VU PHẾ
Các bệnh khí cơ ở thượng tiêu không lợi gây nên thở gấp, trong ngực ách tắc, đều là bệnh biến của phế.

4/ CHƯ THẤP THŨNG MÃN, GIAI THUỘC VU TỲ
Các bệnh về thủy thấp ngưng đọng gây nên các chứng phù thũng, trướng mãn, đều là bệnh biến của tỳ.

5/ CHƯ THỐNG DƯỠNG SANG, GIAI THUỘC VU TÂM
Các mụn loét ở da gây nên các chứng sốt, đau, ngứa, đều do tâm hỏa thịnh, huyết nhiệt gây nên.

6/ CHƯ NHIỆT MẬU KHIẾT, GIAI THUỘC VU HỎA
Các bệnh nhiệt có chứng thần chí hôn mê, co giật đều là hỏa chứng.

7/ CHƯ QUYẾT CỐ TIẾT, GIAI THUỘC VU HẠ
Các chứng hậu quyết nghịch, táo bón, tiết tả ( ỉa chảy ), đều là bệnh biến của hạ tiêu.

8/ CHƯ NUY SUYỄN ẨU, GIAI THUỘC VU THƯỢNG
Các chứng bệnh phế nuy, khí suyễn, nôn mửa ... đều là bệnh do thượng tiêu ( tạng phế ) gây nên.

9/ CHƯ CẤM, CỔ, PHIÊU NHƯ SUY THẦN THỦ, GIAI THUỘC VU HỎA
Các chứng cấm khẩu, rét run, răng va lập cập, thần chí bất thường ở bệnh nhiệt, đều là hỏa chứng.

10/ CHƯ KÍNH HẠNH CƯỜNG, GIAI THUỘC VU THẤP
Các chứng người cứng, cổ gáy cứng quay trở khó khăn, đều là thấp chứng ( do thấp trọc làm tổn thương kinh mạch gây nên ).

11/ CHƯ NGHỊCH XUNG THƯỢNG, GIAI THUỘC VU HỎA
Các chứng khí nghịch thượng xung như nấc có tiếng rõ, to, nôn vọt ra ... đều là hỏa chứng.

12/ CHƯ PHÚC TRƯỚNG ĐẠI, GIAI THUỘC VU HỎA
Bụng căng cứng, đau ( táo bón, đái ít, miệng đắng, phiền nhiệt ), đều là nhiệt chứng.

13/ CHƯ THAO CUỒNG VIỆT, GIAI THUỘC VU HỎA
Các chứng thao cuồng, múa may lung tung, đều là hỏa chứng.

14/ CHƯ BAO CƯỜNG TRỰC, GIAI THUỘC VU PHONG
Các chứng đột nhiên căng cứng co giật đều là phong chứng.

15/ CHƯ BỆNH HỮU THANH, CỔ CHÍ NHƯ CỔ, GIAI THUỘC VU NHIỆT
Các chứng bụng căng chướng, bụng sôi, gõ bụng kêu như gõ trống, đều là nhiệt chứng.

16/ CHƯ BỆNH PHÙ THŨNG, ĐÔNG TOAN KINH HÃI, GIAI THUỘC VU HỎA
Hai bàn chân sưng nề và đau nhức, tâm thần không yên, hay kinh hãi, đều thuộc hỏa chứng.

17/ CHƯ CHUYỂN PHẢN LỆ, THỦY DỊCH HỖN TRỌC, GIAI THUỘC VU NHIỆT
Các chứng chuột rút, uốn ván, chân tay cứng đờ có nước tiểu vẫn đục, đều thuộc nhiệt chứng.

18/ CHƯ BỆNH THỦY DỊCH, ĐĂNG TRIỆT THANH LÃNG, GIAI THUỘC VU HÀN
Thể dịch tiết ra ngoài nếu trong, loãng, lạnh đều là hàn chứng.

19/ CHƯ ẨU THỔ TOAN, BẠO CHÚ HẠ BÁCH, GIAI THUỘC VU NHIỆT
Các chất nôn ra có vị chua, ỉa chảy phọt ra và có lý cấp hậu ( mót rặn ), dều là nhiệt chứng.


22 tháng 9 2014

Sách cổ về mạch học

1/ Mạch pháp mật truyền 
Cách bắt mạch chữa bệnh: tạng phủ thực vị, lục phủ, chư mạch thể trạng, tam bộ chủ bệnh , luận ngũ tạng tứ mạch ứng bệnh, thất biểu mạch quyết, bát lý mạch quyết , ngũ tạng tứ mạch tri chứng dụng dược , tứ thời bình mạch, thất biểu mạch cát hung



Phép chẩn mạch chữa bệnh trong y học cổ truyền. Nội dung gồm các mục: Cứu tức mạch, Chẩn mạch, Mạch danh, Mạch biện bát điều [脈辨八條], Bảo nguyên huyền diệu phú, Bằng mạch dụng dược, Chân tàng mạch, Cát hung mạch thi


Sách y học, nói vai trò của khí mạch nhân thể mạnh mẽ hay suy khô có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh tật của con người. Gồm các phần: 1. Mạch bộ vị giải [脉部位觧]. 2. Tân san mạch trạng [新刊脉状 ]. 3. Mạch bộ vị [脉部位] . Sách không có Tựa, Bạt, không rõ tác giả, hiện chưa có so sánh khảo chứng, chưa rõ sách Việt Nam hay trích sao theo y thư nào


Nội dung: Dạy cách bắt mạch các bệnh. Phần đầu viết theo thể lục bát không chia đoạn mục. Mở đầu: ...Hoa hiên tứ nghiệp thừa nhà Sưu cầu kinh sách thánh hiền di thư Cổ kim chỉ thượng dư sư Nghiệp y tu ngoạn thi thư gia tường phần sau là văn xuôi ghi cách bắt mạch


Nội dung: Sách ghi chép các loại mạch và cách xem mạch. Cách xem mạch của các phái Đông Viên, Vương Thúc Hoà và Trương Thái Tổ




Nội dung: Ghi các bài dạy cách xem mạch chữa bệnh của hoàng giáp Đặng Xuân Bảng. Tờ đầu sách có dòng chữ do người sau ghi thêm vào: "Hành Thiện đệ nhị tiến sĩ Đặng Bảng tiên sinh tư tập. Môn đệ nhất trường hợp bái thụ". Nội dung: 1. Ghi các bài dạy cách xem mạch chữa bệnh, các bài thuốc và cách dùng thuốc. 2. Nghiệm luận tứ thời: nghiệm bàn về thời tiết 4 mùa ảnh hưởng đến bệnh tật vì theo tác giả: "Trời có 4 mùa, đất có 4 mùa, người có 4 mùa, đất có 4 mùa, chư kinh tinh trị, bất khả thừa thời, sai pháp truyền biến bất nghịch". 3. Gia truyền chư chứng chư phương dược trị: các bài thuốc gia truyền trị các các bệnh, như bài thuốc: Huyền vũ thang chủ trị thương hàn, 6 mạch trầm, đau đầu, ho đờm xuyễn, chân tay tê, ăn uống không tiêu, đại tiện tiểu tiện không thông ... 4. Linh khu tố vấn bộ mạch liệt: cách bắt mạch chữa bệnh: phù giả vi dương, trầm giả vi âm, trì giả vi âm v.v... 5. Thái tố mạch bí truyền toản yếu: bí truyền về cách xem mạch: thất biểu mạch hình chứng, Bát lý mạch thể chứng, cửu đạo mạch pháp luận... 6. Các bài thơ về mạch lý: Tứ mạch ca, Tứ mạch ứng bệnh thi, Phù mạch quyết, Lục mạch hầu thi


Những bài ca được viết bằng chữ Nôm mang tính tổng quát về những phương pháp xem mạch, và cụ thể ứng với từng loại bệnh: Thần mạch ca, Thất biểu mạch, Tổng luận chư hình chứng mạch, Mạch phù ...


17 tháng 9 2014

Vọng văn vấn thiết


Nhìn mà biết là Thánh
Nghe mà biết là Thần
Hỏi mà biết là Công ( giỏi hàng đầu )
Xem mạch mà biết là Xảo ( khéo )

04 tháng 6 2014

Ngũ chí !


Năm tình chí của con người:
 Nộ ( giận dữ ) là chí của Can 
Hỉ ( vui mừng ) là chí của Tâm 
Tư ( suy nghĩ ) là chí của Tỳ 
Ưu ( buồn rầu ) là chí của Phế 
Khủng ( khiếp sợ ) là chí Thận
Vậy nên:
 Nộ làm thương Can 
Hỉ làm thương Tâm 
Tư làm thương Tỳ 
Ưu làm thương Phế 
Khủng làm thươngThận




22 tháng 5 2014

TỨ CHẨN



Tứ Chẩn là gì?
 Tứ Chẩn là bốn phương pháp để khám bệnh của y học cổ truyền gồm: Nhìn (vọng chẩn), nghe ngửi (văn chẩn), hỏi (vấn chẩn), bắt mạch, sờ nắn (thiết chẩn), nhằm thu thập các triệu chứng chủ quan và khách quan của người bệnh.
 ( Dưới đây là nội dung tứ chẩn theo quy trình kỹ thuật y học cổ truyền ban hành theo Quyết định số: 26 /2008/QĐ-BYT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế )

QUY TRÌNH SỐ 2
VỌNG CHẨN
Thầy thuốc dùng mắt để quan sát thần, sắc, hình thái, mắt mũi, môi, lưỡi, rêu lưỡi của người bệnh để biết tình hình bệnh tật bên trong của cơ thể phản ánh ra bên ngoài.
1.1. Nhìn Thần: Thần là sự hoạt động về tinh thần, ý thức là sự hoạt động của tạng phủ bên trong cơ thể biểu hiện ra ngoài.
* Còn Thần: mắt sáng, tỉnh táo, bệnh nhẹ
* Không còn Thần: Mệt mỏi, thờ ơ, lãnh đạm với môi trường xung quanh, bệnh nặng.
* Giả thần (hồi quang phản chiếu): Bệnh rất nặng, cơ thể suy kiệt, song đột nhiên tỉnh táo trở lại, thèm ăn uống đó là dấu hiệu chính khí sắp thoát, tiên lượng xấu.
1.2. Nhìn sắc: Nhìn sắc mặt bệnh nhân, khi có bệnh sẽ biến đổi như:
* Sắc đỏ: do nhiệt
- Đỏ toàn mặt: Thực nhiệt thường gặp trong sốt do nhiễm khuẩn, do say nắng
- Hai gò má đỏ, sốt về chiều do âm hư sinh nội nhiệt thường gặp ở những bệnh nhân sốt kéo dài, lao phổi.
* Sắc vàng do hư, thấp.
- Vàng tươi, sáng bóng là do thấp nhiệt (Hoàng đản nhiễm khuẩn)
- Vàng xám, tối là do hàn thấp (Hoàng đản do ứ mật, tan huyết) vàng da do ứ mật
- Vàng nhạt do tỳ hư không vận hoá được thuỷ thấp.
* Sắc trắng do hư hàn, do mất máu cấp.
- Sắc trắng kèm theo phù: Thận dương hư
- Sắc trắng bệch đột ngột xuất hiện ở người bị bệnh cấp tính là dương khí sắp thoát.
- Sắc trắng còn gặp ở những bệnh nhân đau bụng do lạnh, người bị chấn thương mất nhiều máu.
* Sắc đen do thận hư, dương khí hư.
* Sắc xanh do ứ huyết, cơn đau nội tạng, sốt cao co giật ở trẻ em.
1.3. Nhìn hình thái, động thái người bệnh.
- Nhìn hình thái để biết tình trạng khoẻ hay yếu của 5 tạng bên trong:
+ Da, lông khô là phế hư
+ Cơ nhục teo nhẽo là tỳ hư
+ Xương nhỏ, răng chậm mọc là thận hư
+ Chân tay run, co quắp là can huyết hư
+ Người béo ăn ít, hay thở gấp là tỳ hư kèm đàm thấp
+ Người gày, ăn khoẻ, mau đói là vị hoả.
- Nhìn động thái của người bệnh để biết bệnh thuộc âm hay thuộc dương:
+ Thích động, nằm quay mặt ra ngoài bệnh thuộc dương.
+ Thích yên tĩnh, nằm quay mặt vào trong bệnh thuộc âm.
1.4. Nhìn mắt: Nhìn lòng trắng mắt của bệnh nhân.
- Lòng trắng có màu đỏ: Bệnh ở tâm
- Lòng trắng có màu xanh: Bệnh ở can
- Lòng trắng có màu vàng: Bệnh ở tỳ
- Lòng trắng có màu đen: Bệnh ở thận.
1.5. Nhìn mũi
- Đầu mũi có màu xanh: Đau bụng
- Đầu mũi hơn đen: Trong ngực có đàm ẩm
- Đầu mũi trắng: Khí hư hoặc mất máu nhiều
- Đầu mũi vàng: Do thấp
- Đầu mũi đỏ: Do phế nhiệt
1.6. Nhìn môi
- Môi đỏ, khô: Do nhiệt
- Môi trắng nhợt: Do huyết hư (thiếu máu)
- Môi xanh, tím: là ứ huyết
- Môi xanh đen: Do hàn
- Môi lở loét: Do vị nhiệt
1.7. Nhìn da.
- Phù, ấn lõm lâu: Do thuỷ thấp
- Phù, ấn không lõm: do khí trệ
- Da vàng tươi sáng, kèm theo sốt cao: chứng dương hoàng
- Da vàng xạm, không sốt: chứng âm hoàng
- Ban chẩn trên da:
+ Nốt ban chẩn tươi nhuận là chính khí chưa hư
+ Ban chẩn màu tím là nhiệt thịnh
+ Nốt ban chẩn xám là chính khí hư.
1.8. Xem lưỡi: chia làm 2 phần.
* Chất lưỡi: là tổ chức cơ, mạch của lưỡi.
* Rêu lưỡi: là màng phủ trên bề mặt của lưỡi.
Người khoẻ mạnh bình thường: chất lưỡi mềm mại, hoạt động tự nhiên, mầu hồng, rêu lưỡi trắng mỏng, không khô, ướt vừa phải, khi bị bệnh có các thay đổi.
1.8.1. Chất lưỡi.
* Về mầu sắc:
- Nhạt màu: Do hàn chứng, hư chứng, dương khí suy hoặc khí huyết không đầy đủ.
- Đỏ: do nhiệt có bệnh ở lý, thực có nhiệt hoặc hư nhiệt (âm hư hoả vượng)
- Đỏ giáng: do nhiệt thịnh, tà khí đã vào đến phần dinh, huyết. ở các bệnh nhân mắc bệnh mạn tính do âm hư hoả vương hoặc tân dịch bị suy giảm nhiều.
- Lưỡi xanh, tím: có thể là do hàn, có thể do nhiệt. Nếu do nhiệt thì chất lưỡi xanh tím nhiều, lưỡi khô. Nếu do hàn chất lưỡi xanh tím, ướt nhụân. Nếu do ứ huyết chất lưỡi xanh tím có điểm ứ huyết.
* Về hình dáng lưỡi.
- Lưỡi phù nề: Bệnh thuộc thực chứng, nhiệt chứng, có vết hằn răng ở rìa lưỡi: do hư hàn hoặc đàm kết.
- Lưỡi sưng to, trắng nhợt: Tỳ thận dương hư; lưỡi sưng to, hồng đỏ: thấp nhiệt hay nhiệt độc mạnh.
- Lưỡi mỏng nhỏ, ướt: Do tâm tỳ hư, khí huyết hư, suy nhược cơ thể nếu lưỡi mỏng, nhỏ, đỏ giáng do âm hư nhiệt thịnh, tân dịch hao tổn.
- Đầu lưỡi phì đại: Tâm hoả thịnh; hai bên lưỡi phì đại: Can đỏm hoả thịnh; giữa lưỡi phì đại: do vị nhiệt.
* Động thái của lưỡi.
- Lưỡi yếu, màu nhợt: khí huyết hư.
- Lưỡi liệt, màu đỏ: âm hư kiệt.
- Lưỡi liệt, đỏ xẫm: Nhiệt thịnh làm âm hư tổn.
- Lưỡi cứng không cử động được: Nhiệt nhập tâm bào, trúng phong
- Lưỡi lệch: Trúng phong (tai biến mạch máu não)
- Lưỡi run: Do tâm tỳ, khí huyết hư
- Lưỡi rụt ngắn: bệnh trầm trọng, nếu lưỡi rụt ngắn, ướt là hàn ngưng trệ ở cân mạch, nếu lưỡi rụt ngắn, phù nề là do đàm thấp, nếu lưỡi rụt ngắn, đỏ, khô do nhiệt thịnh, thương âm.
- Lưỡi thè ra ngoài: Tâm tỳ có nhiệt hoặc bẩm sinh phát dục kém (bại não)
1.8.2. Rêu lưỡi.
* Rêu lưỡi màu trắng: Bệnh thuộc hàn chứng, biểu chứng.
- Trắng mỏng do phong hàn.
- Trắng mỏng, đầu lưỡi đỏ: do phong nhiệt
- Trắng trơn do thấp hoặc đàm ẩm
- Trắng dính do đàm trọc, thấp tà gây ra
- Trắng, khô nứt nẻ: tà nhiệt bên trong thịnh, tân dịch hao tổn nhiều.
* Rêu lưỡi màu vàng: Bệnh thuộc lý chứng.
- Vàng mỏng: nhiệt ở lý nhẹ.
- Vàng dày, khô: nhiệt thịnh ở lý, tân dịch hao tổn
- Vàng dính: do thấp nhiệt hoặc đàm nhiệt
* Rêu lưỡi xám đen: Bệnh rất nặng.
- Rêu lưỡi xám đen, khô: nhiệt thịnh làm tổn thương tân dịch nhiều.
- Rêu lưỡi xám đen, trơn, nhuận: dương hư, hàn thịnh thuỷ thấp ứ trệ ở bên trong.
- Rêu lưỡi dính, hôi: Trường vị có nhiệt hoặc thực tích ứ lại ở tỳ vị gây ra.
Chú ý: phương pháp nhìn (vọng chẩn) của y học cổ truyền cần thực hiện trong điều kiện ánh sáng tự nhiên thì mới đảm bảo chính xác. Đối với trẻ em dưới 3 tuổi cần kết hợp xem chỉ tay để chẩn đoán chính xác hơn.
QUY TRÌNH SỐ 3
VĂN CHẨN
1. Thầy thuốc dùng tai để nghe tiếng nói, hơi thở, tiếng ho, tiếng nấc của người bệnh.
2. Thầy thuốc dùng mũi để ngửi hơi thở, các chất thải như: phân, nước tiểu, khí hư của bệnh nhân để giúp phân biệt tình trạng bệnh thuộc hư hay thực, bệnh thuộc hàn hay thuộc nhiệt của người bệnh để đề ra phát điều trị phù hợp (thực tế hiện nay thày thuốc có thể hỏi người bệnh để tiếp nhận các thông tin này)
2.1. Nghe tiếng nói của người bệnh.
- Tiếng nói nhỏ, thều thào không ra hơi: chứng hư
- Tiếng nói to, mạnh: chứng thực
- Nói ngọng, không rõ âm từ: trúng phong đàm
- Lẩm bẩm nói một mình: tâm thần hư tổn.
2.2 Nghe tiếng thở của người bệnh.
- Tiếng thở to, mạnh là thực chứng: thường gặp trong các bệnh cấp tính.
- Tiếng thở nhỏ, ngắn, gấp là hư chứng: Thường gặp trong các bệnh nhân nặng, ốm lâu ngày.
2.3. Nghe tiếng ho của người bệnh.
- Ho có đờm là thấu
- Ho không có đờm là khái.
- Ho khan là bệnh nội thương: Phế âm hư
- Bệnh cấp tính mà khản tiếng: phế thực nhiệt
- Bệnh lâu ngày mà khản tiếng: Phế âm hư.
- Ho kèm theo hắt hơi, sổ mũi, sợ lạnh, sốt nhẹ là bị cảm mạo phong hàn.
- Ho từng cơn kèm theo nôn mửa là ho gà (bách nhật khái)

3. Ngửi các chất bài tiết của bệnh nhân.
- Phân tanh, hôi, loãng do tỳ hư
- Phân chua, thối khẳm do tích nhiệt, thực tích.
- Nước tiểu khai, đục do thấp nhiệt.
- Nước tiểu trong, không khai, số lượng nhiều: thận dương hư.
- Nước tiểu nhiều, có ruồi bâu, kiến đậu: đái tháo đường
- Khí hư ( của phụ nữ) màu vàng, mùi hôi: thấp nhiệt (viêm nhiễm bộ phận sinh dục)
- Khí hư màu trắng, số lượng nhiều: hư hàn.
- Ợ hơi; có mũi chua, hăng là do tỳ vị bị ủng trệ, tiêu hoá không tốt.
- Hơi thở hôi kèm theo lở loét niêm mạc miệng, lưỡi là do vị nhiệt.

QUY TRÌNH SỐ 4
VẤN CHẨN
Là cách hỏi bệnh (vấn chẩn) để làm bệnh án theo YHCT. Lần lượt tiến hành theo các bước sau:
1. Lý do đi khám bệnh và hoàn cảnh xuất hiện bệnh:
- Lý do chính làm người bệnh lo lắng và phải đi khám bệnh, mức độ bệnh của lý do này
- Lý do này xuất hiện trong hoàn cảnh nào: sau cảm nhiễm lục tà (ngoại nhân), sau rối loạn tình chí (nội nhân) hay sau chấn thương, trùng thú cắn, lao động nặng nhọc, ăn uống thiếu thốn hoặc nhiều đồ ngọt béo, sống lạnh... (bất nội ngoại nhân)
2. Diễn biến bệnh:
+ Diễn biến của triệu chứng chính:
- Xuất hiện từ bao giờ, trong hoàn cảnh nào?
- Diễn biến của triệu chứng đó có biểu hiện gì đặc biệt trong ngày, tuần... có liên quan gì với thời tiết, khí hậu (ngoại nhân), sự thay đổi tình chí (nội nhân), ăn uống, lao động, sinh hoạt (bất nội ngoại nhân) ... không?
- Nếu là triệu chứng của bệnh cũ nay nặng lên, thì lý do gì làm bệnh nặng lên hoặc có diễn biến bất thường?
+ Diễn biến của triệu chứng kèm theo:
- Các triệu chứng kèm theo này xuất hiện khi nào, trước hay sau triệu chứng chính?
- Các triệu chứng kèm theo cũng có liên quan gì tới các nguyên nhân ngoại nhân, nội nhân hay bất nội ngoại nhân không
- Chú ý khai thác cả các triệu chứng âm tính kèm theo có giá trị chẩn đoán phân biệt. Ví dụ: người bệnh chỉ đau đầu khi căng thẳng, mệt mỏi, không đau tăng khi thay đổi thời tiết = đau đầu do thất tình
+ Các phương pháp điều trị đã sử dụng và kết quả:
* Nếu người bệnh chỉ dùng các phương pháp điều trị YHHĐ đơn thuần, chỉ hỏi lướt qua, không tìm hiểu sâu.
* Cố gắng khai thác kỹ và hết các phương pháp điều trị bằng YHCT mà người bệnh đã sử dụng, các phương pháp đó có thể là:
+ Phương pháp không dùng thuốc:
- Người bệnh tự làm: tự xoa bóp, chườm nóng...
- Khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tư nhân hoặc công lập: châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, tập khí công dưỡng sinh... các phương pháp này sử dụng riêng rẽ hay phối hợp vài phương pháp với nhau
+ Phương pháp dùng thuốc: dùng thuốc dùng ngoài hay thuốc uống
- Dạng thuốc, cách sử dụng,
- Dùng theo chỉ định của ai (tự dùng theo kinh nghiệm gia đình, theo lời khuyên của người quen, theo hướng dẫn của lương y, thầy thuốc...)
- Nếu dùng thuốc thang có biết tên bài thuốc hay thành phần bài thuốc không? Nếu không biết thì có biết chẩn đoán bệnh không, ở đâu chẩn đoán?
+ Tất cả các phương pháp điều trị này đã đạt được kết quả thế nào?
3. Hỏi thêm các đặc điểm của YHCT: trong quá trình hỏi bệnh, tuỳ từng chứng cụ thể, hãy hỏi thêm các triệu chứng mang tính đặc thù của YHCT như sau: 
3.1. Hỏi về hàn - nhiệt và mồ hôi: là hỏi về cảm giác nóng lạnh, mồ hôi, thời gian và kiêm chứng.
Chủ yếu hỏi có hay không có phát sốt, sợ lạnh? Thời gian ngắn hay dài? Mức độ nặng hay nhẹ? Các triệu chứng kèm theo? Có hay không có mồ hôi, tính chất và lượng nhiều hay ít?
+ Bệnh mới bắt đầu có phát sốt, sợ lạnh là ngoại cảm biểu chứng, trong đó:
- Phát sốt nhẹ, sợ lạnh nhiều, không có mồ hôi là ngoại cảm phong hàn biểu thực chứng
- Phát sốt cao, sợ lạnh ít, có mồ hôi là ngoại cảm phong nhiệt biểu hư chứng
+ Lúc có cảm giác nóng, lúc có cảm giác lạnh là hàn nhiệt vãng lai. Nếu thời gian phát bệnh ngắn, kèm miệng đắng, họng khô, hoa mắt, chóng mặt, ngực sườn đầy tức... là chứng bệnh bán biểu bán lý
+ Sốt cao, không sợ lạnh, có ra mồ hôi, nước tiểu vàng sẫm, đại tiện táo, miệng khát, chất lưỡi đỏ là lý thực nhiệt
+ Bệnh kéo dài, thường hay sốt âm ỉ về buổi chiều (triều nhiệt), ngực và lòng bàn tay lòng bàn chân có cảm giác nóng (ngũ tâm phiền nhiệt), kèm theo gò má đỏ, môi khô, đạo hãn (ra mồ hôi trộm) là biểu hiện âm hư sinh nội nhiệt.
+ Sợ lạnh, chân tay lạnh, hơi thở ngắn gấp (đoản khí), người mệt mỏi vô lực, tự ra mồ hôi (tự hãn) là dương hư.
+ Một số tính chất đặc biệt của mồ hôi:
- Mồ hôi vàng: thấp nhiệt; dính nhớt: vong âm (bệnh nặng).
- Mồ hôi nhiều ở nửa người: trúng phong.
- Mồ hôi nhiều không dứt, người và chân tay lạnh: thoát dương.
3.2. Hỏi về đầu, thân, ngực và bụng, tứ chi: là hỏi về vị trí, đặc điểm, tính chất và thời gian diễn biến của bệnh, tuỳ vị trí đau để tìm tổn thương tạng phủ, kinh lạc.
* Đầu đau và váng đầu :
- Đầu đau liên tục, chủ yếu ở hai bên thái dương, kèm theo phát sốt, sợ lạnh... đa số là do ngoại cảm
- Đau đầu khi đau, khi ngừng, thường kèm theo có hoa mắt, chóng mặt, không nóng, không lạnh... đa số là do nội thương - lý chứng
- Đau nhiều hoặc chỉ ở một bên đầu thuộc về nội phong, huyết hư
- Ban ngày đau đầu, khi lao động mệt mỏi đau tăng do dương hư
- Đau đầu buổi chiều... thuộc huyết hư, đau đầu vào nửa đêm... đa số thuộc âm hư
- Đau đầu kèm hoa mắt, chóng mặt, mắt đỏ, miệng đắng... là do can đởm hoả mạnh
- Đau đầu kèm hoa mắt chóng mặt, hồi hộp đánh trống ngực, thở ngắn gấp, không có lực... do khí huyết hư nhược
- Bỗng nhiên váng đầu là thực chứng. Váng đầu kéo dài là hư chứng
- Đầu có cảm giác đau, tức, nặng, căng cứng... như bị bọc thuộc thấp nặng
- Vị trí đau đầu: các đường kinh dương đều đi lên đầu, các đường kinh âm có vài nhánh lên đầu. Đau vùng trán thuộc kinh dương minh, đau sau gáy thuộc kinh thái dương, đau hai bên đầu thuộc kinh thiếu dương, đâu đỉnh đầu thuộc kinh quyết âm.
* Thân mình, tứ chi đau mỏi :
- Toàn thân đau mỏi, phát sốt, sợ lạnh... đa số là do ngoại cảm
- Đau mỏi người lâu ngày... đa số là do khí huyết bất túc
- Đau mỏi vùng thắt lưng ... đa số là thuộc thận hư
- Các khớp ở tứ chi, cân cốt, cơ bắp có cảm giác đau tê, hay các khớp sưng đau có tính di chuyển hay cố định... đa số là do phong hàn thấp tý
- Tay chân, thân mình tê dại, ngứa thường do khí huyết kém
* Đau tức vùng ngực :
- Ngực đau, sốt cao, khạc ộc ra máu mủ... đa số là do Phế ung (abcès phổi)
- Ngực đau, kèm theo sốt về chiều, ho khan, ít đờm, trong đờm có dính máu... đa số là do Phế lao (lao phổi)
- Đau ngực lan lên trên bả vai, hay đau dữ dội ở phần sau xương ức, tự cảm thấy vùng ngực như có một áp lực đè nặng vào, đó là chứng Hung tý
* Đau vùng bụng :
- Đau bụng vùng trên rốn, nôn khan hay nôn ra bọt dãi, gặp lạnh đau tăng... đa số là vị hàn
- Bụng trên chướng đau, ợ hơi, nuốt chua... đa số là do thực ngưng
- Đau bụng quanh rốn, khi đau, khi ngừng, kèm theo lợm giọng, buồn nôn... đa số là đau bụng giun
- Đau bụng, phát sốt, đại tiện phân nhão nát kèm có máu mũi... là thấp nhiệt - thực chứng
- Đau bụng âm ỉ, đại tiện phân nhão nát, sợ lạnh tay chân lạnh... là hàn thấp - hư chứng
- Thường đau bụng xuất hiện đột ngột là thực chứng, đau bụng kéo dài đa số là hư chứng.
- Đang đau bụng, ăn vào đau tăng là thực chứng. Sau khi ăn mà bụng bớt đau là hư chứng
- Đau bụng dữ dội, chỗ đau cố định, khi khám sờ nắn đau tăng lên (cự án) là thực chứng
- Đau xuất hiện từ từ, âm ỉ, vị trí đau không cố định khi thăm khám, xoa nắn thì có cảm giác dễ chịu (thiện án) là hư chứng
3.3. Hỏi về ăn uống: cần hỏi đã ăn uống những gì? Lượng ăn, khẩu vị, phản ứng sau khi ăn, cho tới cảm giác khát, uống nước
- Đang mắc bệnh vẫn ăn uống gần như bình thường, là vị khí chưa bị tổn thương
- Chán ăn, đầy bụng, hay ợ hơi: vị có tích ngưng (thực chứng)
- Ăn không ngon miệng, không tiêu: hư chứng
- Ăn vào bụng chướng thêm: thực chứng
- Ăn vào dễ chịu: hư chứng; khó chịu: thực chứng
- Ăn vào đầy tức, lâu tiêu: tích trệ
- Ăn nhiều mau đói: đa số là vị hoả (cần chú ý loại trừ chứng tiêu khát)
- Miệng khát, thích uống nước mát: nhiệt ở lý
- Thích uống nước ấm: hàn ở lý
- Không muốn uống, uống vào lại nôn ra: thấp nhiệt ở lý
- Uống vào không hết khát: âm hư sinh nội nhiệt
- Miệng nhạt, không khát hoặc là biểu chứng chưa chuyển vào lý hoặc là dương hư - hàn bên trong mạch (lý chứng).
- Miệng đắng là can đởm thấp nhiệt, miệng chua là trường vị tích ngưng, miệng ngọt cũng là tỳ hư có thấp nhiệt.
- Khẩu vị trước khi mắc bệnh: có thể là nguyên nhân gây ra bệnh hiện nay. Hay ăn đồ sống lạnh, ngọt béo: dễ tổn thương dương khí tỳ vị. Ăn nhiều đồ cay nóng, uống rượu nhiều dễ làm hao tổn tân dịch, gây đại tiện táo
3.4. Hỏi về đại tiện và tiểu tiện: hỏi rõ về số lần và tình trạng của đại - tiểu tiện và các dấu hiệu kèm theo
+ Đại tiện:
Đi dễ hay khó:
- Đại tiện khó thuộc thực.
- Đại tiện dễ hơn bình thường hoặc không cầm được thuộc hư
Phân táo hay lỏng:
- Khô (táo) hơn bình thường là nhiệt vừa, nếu bón lại từng hòn là nhiệt nặng.
- Phân lỏng loãng thường thuộc hàn, nhưng đôi khi là nhiệt hoặc thực.
Tính chất phân:
- Đại tiện phân có máu mũi, kèm theo đau bụng quặn, mót rặn, toàn thân sốt là chứng Lỵ (thấp nhiệt).
- Đại tiện phân đen như bã cà phê, mùi thối khẳn... là viễn huyết (xuất huyết đường tiêu hoá trên).
- Đại tiện phân có máu đỏ tươi đa số là cận huyết (chảy máu do Trĩ).
- Đại tiện phân sống nhão, nát, trước khi đi đại tiện không đau bụng... đa số là tỳ vị hư hàn.
- Đại tịên phân nhão nát, có mùi chua hôi, phân lổn nhổn, sống phân có bọt, trước khi đại tiện thì đau bụng, sau khi đại tiện thì giảm đau, đó là hiện tượng thực ngưng
- Sáng sớm đã đau bụng, đi ngoài lỏng ... đa số là thận dương hư.
+ Tiểu tiện:
Đi dễ hơn hay khó hơn:
- Tiểu tiện khó, nhỏ giọt: chứng thực (u xơ tiền liệt tuyến, viêm bàng quang cấp, sỏi bàng quang...)
- Sau mổ không đái được: rối loạn khí hoá bàng quang
- Đái dễ hơn, dễ són đái không cầm được: chứng hư
Mầu sắc, số lượng:
- Nước tiểu trong, đái nhiều: hàn
- Nước tiểu vàng sẫm, đái ít: nhiệt
- Nước tiểu đục, đái rắt, đái buốt: thấp nhiệt
Thời gian đi tiểu: đi tiểu nhiều về đêm, hay đái dầm... là thận hư
3.5. Hỏi về giấc ngủtìm hiểu về mất ngủ, ngủ dễ hoặc ngủ hay mê
+ Mất ngủ:
- Khó ngủ, ăn uống giảm sút, mệt mỏi, hay quên, hồi hộp, dễ hoảng hốt... là Tâm tỳ lưỡng hư
- Người bứt rứt, khó chịu không ngủ được, sốt âm ỉ, đạo hãn, chất lưỡi đỏ, khô (ít tân), mạch tế sác.. là âm hư.
- Sau khi mắc bệnh nặng, người già khí huyết bị suy giảm thường dẫn đến đêm ngủ không yên, ngủ ít, miệng lưỡi dễ bị viêm nhiễm, đầu lưỡi đỏ.. là tình trạng tâm huyết hư, tâm hoả vượng
- Mất ngủ, ngủ hay mê, đau đầu, miệng đắng, tính tình nóng nảy, dễ cáu giận... do can hoả vượng. Khi mê hay la hét là đởm khí hư, hay vị nhiệt
Ngủ nhiều :
- Người luôn mệt mỏi, ngủ nhiều là khí hư.
- Sau khi ăn mà mỏi mệt, muốn ngủ.. là tỳ bất túc.
- Sau khi bị bệnh kéo dài mà ngủ nhiều .. là chính khí chưa hồi phục
- Người nặng nề, mệt mỏi, ngủ nhiều, mạch hoãn... là thấp trệ
3.6. Hỏi về tai: trong YHCT, giữa tai với các tạng phủ như thận, can, đởm có liên quan mật thiết
- Điếc lâu ngày đa số là thận hư, khí hư
- Trong bệnh ôn nhiệt mà xuất hiện tai nghe kém là biểu hiện nhiệt tà đã gây tổn thương phần âm dịch
- Tai ù xuất hiện từ từ, tăng dần, kèm tâm phiền, đầu váng là thận hư
- Tai ù xuất hiện đột ngột, kèm theo tức ngực, đau vùng mạng sườn, miệng đắng, đại tiện khô táo, nôn mửa, bồn chồn là can đởm hoả vượng
3.7. Riêng đối với phụ nữ cần hỏi thêm về kinh, đới, thai, sản:
+ Kinh nguyệt:
- Khi nào bắt đầu có kinh, đã sạch kinh chưa, khi nào?
- Chu kỳ kéo dài bao lâu, số lượng nhiều hay ít, tính chất kinh nguyệt, có thống kinh hay không?
- Kinh nguyệt trước kỳ, lựơng nhiều, đỏ xẫm đặc, miệng khô, môi đỏ... là huyết nhiệt. Kinh tím đen, lẫn máu cục là thực nhiệt
- Kinh nguyệt sau kỳ, lượng kinh ít, đỏ nhạt loãng, sắc mặt nhợt... là huyết hư. Nếu như kèm tay chân lạnh, sắc mặt nhợt là hư hàn. Nếu kinh tím sẫm, thành cục, bụng dưới đau - cự án là tình trạng khí ngưng, huyết ứ
- Máu kinh có mùi hôi là nhiệt chứng, có mùi tanh là hàn chứng
+ Khí hư (đới hạ): mùi và màu sắc, tính chất của khí hư?...
- Trong loãng, tanh là hư hàn,
- Vàng, đặc, hôi... là thấp nhiệt
+ Đã hay chưa kết hôn?
- Tình hình sinh đẻ: số lần có mang, lần đẻ? Có hay không có đẻ khó? Số lần sảy, nạo hút thai?
- Sau khi đẻ, sản dịch ra liên tục, kèm theo bụng dưới đau - cự án... là huyết nhiệt

QUY TRÌNH SỐ 5
THIẾT CHẨN
Thiết chẩn là phương pháp khám bệnh gồm bắt mạch (mạch chẩn) và thăm khám tứ chi và các bộ phận của cơ thể (xúc chẩn)
1. Mạch chẩn:
1.1. Phương pháp bắt mạch:
+ Chuẩn bị:
- Người bệnh: người bệnh yên tĩnh, thanh thản, không lo lắng. Hai tay dể xuôi, lòng bàn tay ngửa lên trên, mạch không bị ép. Tốt nhất là bắt mạch vào lúc sáng sớm khi mới ngủ dậy.
- Thầy thuốc: thoải mái, không bị phân tán tư tưởng
Vị trí bắt mạch: cổ tay người bệnh, chỗ động mạch quay đi qua, gọi là Thốn khẩu. Đoạn động mạch quay đi qua cổ tay này chia làm 3 bộ: Bộ thốn, Bộ quan và Bộ xích. ở ngang mỏm trâm trụ là Bộ quan, trên bộ quan là Bộ thốn, dưới bộ quan là Bộ xích.
Người thầy thuốc đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mốc là mỏm trâm trụ), sau đó đặt ngón trỏ vào bộ thốn, rồi sau cùng đặt ngón nhẫn vào bộ xích. Thường 3 ngón tay, đặt vừa khít nhau, nếu Người bệnh cao quá, thì đặt 3 ngón tay xa nhau ra một chút
+ Các cách bắt mạch:
- Tổng khán: xem chung cả 3 bộ để nhận định tình hình chung
- Vi khán: xem từng bộ vị để chẩn đoán bệnh chứng của từng tạng phủ khác nhau. Bên cổ tay trái người bệnh bộ thốn tương ứng với tạng tâm, bộ quan tạng can, bộ xích tạng thận (âm). Bên cổ tay phải bộ thốn tương ứng với tạng phế, bộ quan tạng tỳ, bộ xích tạng thận (dương).
Thường phối hợp cả hai cách xem, tổng khán trước, rồi vi khán sau
- Khi bắt mạch, cần dùng lực các ngón tay khác nhau để xem xét tỷ mỉ. Khi ngón tay đặt nhẹ thì gọi là khinh án, khi ngón tay đã hơi dùng lực thì gọi là trung án. Khi ngón tay đã dùng lực ấn sâu xuống thì gọi là trọng án
1.2. Đặc điểm và bệnh chứng khi bắt mạch:
1.2.1. Mạch bình thường: là một hơi thở (một tức) có 4 - 5 nhịp mạch đập (khoảng 70 - 80 lần/phút), không ra nông cũng không ở sâu, không to không nhỏ, mạch đều đặn thì gọi là mạch hoà hoãn
1.2.2. Một số biểu hiện bệnh lý thường gặp của mạch;
+ Độ nông sâu của mạch: mạch phù và mạch trầm
- Mạch phù: đặt ngón tay nhẹ đã cảm thấy cảm giác mạch đập rõ, ấn dần xuống mạch đập yếu đi, thường bệnh ở biểu.
Phù mà có lực là biểu thực, phù mà vô lực là biểu hư.
Mắc bệnh ngoại cảm, sợ lạnh, phát sốt, không ra mồ hôi, mạch phù khẩn là biểu thực hàn. Cũng bị bệnh ngoại cảm, sợ gió, phát sốt, ra mồ hôi, mạch phù nhược là biểu hư hàn. Bệnh truyền nhiễm cấp tính thời kỳ đầu đa số thấy mạch phù
- Mạch trầm: đặt ngón tay nhẹ chưa thấy cảm giác mạch đập, dùng lực ấn ngón tay xuống sâu (trung án), mới có cảm giác mạch đập, thường bệnh đã vào lý.
Mạch trầm có lực là lý thực. Mạch trầm vô lực là lý hư.
+ Tần số mạch: mạch trì và mạch sác
- Mạch trì: là một hơi thở có 3 mạch đập (khoảng dưới 60 lần/phút), thuộc về hàn chứng
Mạch phù trì là biểu hàn, mạch trầm trì là lý hàn.
Mạch trì có lực là thực hàn, mạch trì vô lực là hư hàn.
Nếu Người bệnh xuất hiện lưng gối đau mỏi, đi ngoài lỏng vào lúc sáng sớm, đau bụng, lưỡi nhuận, mạch trầm trì vô lực là biểu hiện hội chứng thận dương hư- thuộc lý hư hàn
- Mạch sác: là một hơi thở có trên 5 mạch đập (khoảng trên 90 lần/phút), thuộc về nhiệt chứng
Mạch sác có lực là thực nhiệt, mạch sác tế nhược là âm hư sinh nội nhiệt.
+ Cường độ mạch: mạch hư và mạch thực
- Mạch thực: là mạch đập cho cảm giác cứng, đầy, chắc, như lốp xe bơm căng, đập có lực (hữu lực), thuộc thực chứng, do nhiệt, hoả, thực tích...
Thực hoạt là đàm thấp ngưng kết. Mạch thực huyền là can khí uất kết
- Mạch hư là mạch đập cho cảm giác mềm, không đầy, ấm mạnh thường mất, vô lực, thuộc hư chứng, do khí, huyết, hoặc âm, dương hư.
+ Tốc độ tuần hoàn trong lòng mạch: mạch hoạt và mạch sáp
- Mạch hoạt: là mạch đến đi rất lưu lợi, có cảm giác như dưới ngón tay có những hạt châu lăn. Thường gặp ở trẻ em, phụ nữ khi có kinh hay có thai. Những người bị đàm thấp (vô hình do rối loạn lipit máu và hữu hình do ho khạc đờm), thực ngưng...
- Mạch sáp: là mạch đến đi rất khó khăn, đến như là chưa đến, đi như là chưa đi. Do huyết hư, khí trệ hoặc hàn ngưng.
+ Độ cứng mềm của mạch: mạch huyền và mạch khẩn :
- Mạch huyền: căng, như sờ sợi dây đàn, cứng, thế mạch khẩn cấp, có lực. Đại diện cho can thực (can phong, can khí uất kết...), còn gặp trong các chứng có đau. Mạch huyền hoạt là đàm ẩm.
- Mạch khẩn : căng, như sờ trên sợi dây thừng (không thẳng băng, có chỗ lồi chỗ lõm), thế mạch khẩn cấp, có lực. Cũng thừơng gặp trong các chứng bệnh có đau, hàn chứng.
Bị ngoại cảm phong hàn mạch phù khẩn, khi lý hàn mạch trầm khẩn.
Chứng tý thể hàn tý với các khớp đau dữ dội, cố định một chỗ, chườm nóng đỡ đau, đa số là mạch huyền khẩn.
Khi có biểu hiện xơ cứng động mạch thì cũng xuất hiện mạch khẩn
Ngoài ra còn có một số loại mạch khác như hồng, kết, đại, súc... nhưng trên lâm sàng ít gặp hơn.
2. Xúc chẩn :
Xúc chẩn là phương pháp thăm khám bằng sờ nắn trong YHCT. Người thày thuốc sờ nắn vùng bụng, tứ chi, da thịt (bì phu, cơ nhục) để tìm các biểu hiện bất thường.
2.1. Sờ vùng bụng (phúc chẩn):
- Bụng đau, ấn xuống đau giảm là thiện án, thuộc hư chứng, ấn xuống đau tăng là cự án, thuộc thực chứng.
- Có u cục ở bụng, cứng, có hình thể dưới tay là huyết ứ, mềm, di động, ấn tan, không có hình thể dưới tay là khí trệ
- Bụng dưới nóng, chân tay lạnh là giả hàn; lạnh, chân tay lạnh là nội hàn; ấm, chân tay lạnh là ngoại hàn

2.2. Sờ da thịt (bì phu và cơ nhục): chủ yếu để tìm hiểu độ ấm - lạnh
- Da: nhuận hay khô, có mồ hôi hay không, lạnh hay nóng
Da mới sờ thấy nóng, ấn sâu và để lâu bớt dần là nhiệt ở biểu.
Xem có phù, nổi gai, ban chẩn, nốt phỏng không?
- Cơ nhục: có co cứng cơ là thực chứng, cơ mềm hay nhẽo là hư chứng
2.3. Sờ tứ chi:
- Mu bàn tay, lưng nóng là ngoại cảm phát sốt
- Lòng bàn tay, bàn chân ấm nóng hơn mu là âm hư sinh nội nhiệt.
- Tay chân lạnh là dương hư
- Trẻ em sốt cao, đầu chi lạnh có thể xuất hiện co giật
- Khi đại tiện lỏng, mạch tế nhưựoc, tay chân lạnh là đại tiện lỏng khó cầm, tay chân còn nóng ấm dễ cầm hơn
- Sờ nắn các khớp để xem có gãy xương không, các khớp có sưng, nóng, hạn chế vận động hay cứng khớp, biến dạng không?

2.4. Sờ đường đi của kinh mạch: tìm các điểm phản ứng ở du huyệt và khích huyệt. Bệnh lý của đường kinh thường xuất hiện sớm nhất những dấu hiệu phản ứng trên huyệt khích và huyệt du của đường kinh đó. Trong YHCT gọi là kinh lạc chẩn