19 tháng 12 2013
14 tháng 12 2013
12 tháng 12 2013
Trị liệu pháp của Lãn Ông và một số danh y Trung Hoa
Sưu tầm tại Link: http://lehuutrac.edu.vn/nghien-cuu-ve-y-thuat-cua-hai-thuong-lan-ong.html
Nói đến trị liệu pháp (thérapeutique, principes thérapeutiques), tức là đề cập đến một vấn đề hết sức bao quát của y học. Vì thế, trong khuôn khổ một bài báo chúng ta không thể nào đi vào được hết các chi tiết. Chúng ta chỉ có thể phác họa ít nhiều nét đại cương, ít nhiều đường lối chính yếu của các danh y, ngõ hầu soi sáng cho chúng ta một phần nào trên con đường khảo sát Đông y. Chính vì thế mà trước hết xin quý vị lượng thứ cho sự sơ lược của bài này.
Nói đến trị liệu pháp (thérapeutique, principes thérapeutiques), tức là đề cập đến một vấn đề hết sức bao quát của y học. Vì thế, trong khuôn khổ một bài báo chúng ta không thể nào đi vào được hết các chi tiết. Chúng ta chỉ có thể phác họa ít nhiều nét đại cương, ít nhiều đường lối chính yếu của các danh y, ngõ hầu soi sáng cho chúng ta một phần nào trên con đường khảo sát Đông y. Chính vì thế mà trước hết xin quý vị lượng thứ cho sự sơ lược của bài này.
1. Trước hết, tưởng cũng nên nhắc lại rằng Đông y đã được xây nền đắp tảng trên bộ Nội Kinh.
Nội Kinh gồm hai quyển:
- Tố Vấn gồm 81 chương.
- Linh Khu gồm 81 chương, nói về châm cứu.
Tuy sách như là thuật lại lời đàm thoại giữa Hoàng Đế (2696-2598 tcn) với Kỳ Bá, nhưng có lẽ sách chỉ được viết ra khoảng 1000 năm trước công nguyên. Có người lại cho rằng bộ Nội Kinh được viết khoảng thế kỷ 4 tcn.[13]
Bộ Nội Kinh cho chúng ta các khái niệm về cơ thể học, bệnh lý học, và trị liệu pháp (thérapeutique).
Về phương diện bệnh lý học (pathogénie) chẳng hạn, Nội Kinh đã chia nguyên nhân sinh bệnh thành hai loại:
a. Ngoại cảm, do lục dâm: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa.
b. Nội thương, do sự thương tổn của khí huyết, tạng phủ, Âm Dương, gây ra bởi:
- Thương thực.
- Lao lực.
- Sắc dục.
- Thất tình (hỉ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng).[14]
Tuy nhiên Nội Kinh không đưa ra một phương thuốc nào nhất định và chỉ chuyên chú về châm cứu.
2. Đời nhà Chu, ta còn thấy hai triết thuyết về bệnh lý:
- Triết thuyết thứ nhất cho rằng bệnh tật sinh ra là do nhị khí Âm Dương trong người không được điều hòa.
- Triết thuyết thứ hai cho rằng bệnh tật sinh ra do ngũ hành trong người không được quân bình.
Tuy nhiên, trước đời nhà Hán (thế kỷ 2 tcn) thì phương pháp trị liệu nằm gọn trong các khoa:
- Châm (acupuncture).
- Cứu (moxa).
- Án ma (kinésithérapie, massage).
3. Mãi đến đời Hán, Trương Trọng Cảnh (đỗ tiến sĩ năm 163 đời Hán Linh Đế) mới mở một tân kỷ nguyên cho nền y học Trung Hoa.
Ông khảo sát các bệnh theo bệnh trạng (manifestations cliniques) tìm căn do bệnh tật, định phương pháp trị liệu bằng thuốc men. Ông viết hai quyển về y học là:
- Thương Hàn luận.
- Kim quỹ.
Trương Trọng Cảnh chủ trương rằng tà khí xâm nhập vào cơ thể con người do 6 Kinh từ ngoài vào trong (từ biểu vào lý) theo thứ tự sau đây:
(1) Thái Dương kinh (Thủ thái dương, Tiểu tràng kinh, Túc thái dương, Bàng quang kinh)
(2) Dương Minh kinh (Thủ dương minh, Đại tràng kinh, Túc dương minh, Vị kinh)
(3) Thiếu Dương kinh (Thủ thiếu dương, Tam tiêu kinh, Túc thiếu dương, Đởm kinh)
(4) Thái Âm kinh (Thủ thái âm, Phế kinh, Túc thái âm, Tì kinh)
(5) Thiếu Âm kinh (Thủ thiếu âm, Tâm kinh, Túc thiếu âm, Thận kinh)
(6) Quyết Âm kinh (Thủ quyết âm, Tâm bào lạc kinh, Túc quyết âm, Can kinh)
Tổng quát mà nói:
* Bệnh ở kinh Dương, thuộc Dương, Biểu (ngoài), Nhiệt và Thực, cho nên có thể dùng những thuốc:
- Công, như phát hãn (làm cho ra mồ hôi) hoặc bằng bài Ma hoàng thang[15] hoặc Quế chi thang[16] (bệnh ở Thái Dương kinh).
* Bệnh ở các kinh Âm thuộc Âm, Lý (bên trong), Hàn và Hư, vì thế phải dùng thuốc Ôn bổ như:
Trương Trọng Cảnh được coi là một vị thánh y của Trung Quốc. Ông đã để lại 113 phương (ordonnances magistrales) và 397 y án (schémas de traitement).
Trần Tu Viên (khoảng 1803), trong thiên Cổ kim y luận, cho rằng Trương Trọng Cảnh đã biết mọi phương pháp chữa bệnh:
- Công (médication agressive)
- Bổ (médication tonique)
- Ôn (médication réchauffante)
- Lương (médication rafraîchissante)
Lại biết:
- Tiên công hậu bổ.
- Tiên bổ hậu công.
- Hàn nhiệt kiêm thi.
- Công bổ tịnh dụng, v.v.
Mọi lương y sau này chỉ khai thác được một khía cạnh nào đó của Trương Trọng Cảnh mà thôi.
4. Sau Trương Trọng Cảnh, bẵng đi một thời gian khá lâu, không ai đưa ra được một chủ xướng gì mới mẻ. Mãi đến đời nhà Kim, Nguyên (1206-1368) mới thấy có những danh y xuất hiện, đưa ra những chủ xướng mới mẻ. Đời Kim Nguyên có 4 danh y mà đời sau gọi là Kim Nguyên tứ đại gia [22] hay «Trương, Lưu, Lý, Chu, tứ tử». Đó là:
- Lưu Hoàn Tố, t71c Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
- Trương Tông Chính, tức Trương Tử Hòa (1155-1260)
- Lý Cảo, tức Lý Đông Viên (1179-1251)
- Chu Chấn Hanh, tức Chu Đơn Khê (1281-1358)[23]
a. Lưu Hoàn Tố, tự Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
Lưu Hoàn Tố chủ trương rằng các bệnh sinh ra trong người vì Nhiệt thịnh. Vì thế ông chủ trương dùng các vị thuốc hàn lương. Ngoài ra ông cũng dùng các loại thuốc:
- Thổ (vomitifs)
- Hạ (laxatifs ou purgatifs)
- Hãn (diaphorétiques)
Lưu Thủ Chân còn chủ trương rằng Âm Dương, Ngũ hành , Ngũ vận là nguyên nhân sinh ra bệnh tật.
Sau này Trương Giới Tân (1563-1640) đã đả kích Lưu Thủ Chân và cho rằng các môn thuốc hàn lương của ông chỉ có ích cho những người Trung Hoa ở phương Bắc, khoẻ mạnh, chứ không thích hợp những người Trung Hoa ở phương Nam, yếu hơn.[24]
b. Trương Tòng Chính, tự Tử Hòa (1155-1260).
Trương Tử Hòa chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do tà khí bên ngoài đột nhập vào cơ thể, nên cần phải trừ khử bằng các thuốc công, hạ (médication diaphorétique, émétissantes, purgatives, laxatives). Ông đặc biệt ưa dùng thuốc hạ (purgatifs).
c. Lý Cảo, tự Đông Chi, hiệu Đông Viên (1179-1251)
Lý Đông Viên cho rằng các bệnh sinh ra là do sự mất quân bình giữa Tì (-) và Vị (+); Vì thế, ông chuyên môn bổ Tì. Chính ông đã sáng chế bài Bổ trung ích khí thang.
d. Chu Đơn Khê, tự Ngạn Tu, hiệu Chấn Hanh (1281-1358)
Chu Đơn Khê chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do ăn uống thiếu chất bổ dưỡng. Ông lại cho rằng trong người Âm thường bất túc, Dương thường hữu dư. Vì thế ông chuyên bổ Âm.
5. Đến đời Minh (1368-1644), ta lại thấy y học chia ra thành nhiều phái:
a. Công hạ phái. Phái này chủ trương như Trương Tử Hòa xưa rằng nên dùng các loại thuốc công, hạ.
b. Dưỡng Âm phái. Phái này theo chủ thuyết của Chu Đơn Khê, dùng các thuốc bổ âm.
c. Ôn bổ phái. Phái này do các lý thuyết gia sau đây lãnh đạo:
- Tiết Dĩ, tự Lập Trai (khoảng 1500-1560)
- Trương Giới Tân, tự Huệ Khanh, hiệu Cảnh Nhạc (1563-1640)
Ôn bổ phái chủ trương: Dương khí trong người chính là sinh khí, khó được và dễ mất, vì thế phải dùng thuốc ôn bổ để dưỡng Dương kh, chứ không được dùng những thuốc hàn, lương.
Tóm lại ta thấy các danh y Trung Hoa:
a. Người thì lưu tâm đến tà khí và chỉ chuyên dùng thuốc công, hạ để trừ khử.
b. Người thì lưu tâm đến cơ thể con người, và cho rằng các bệnh sinh ra là do Âm Dương nhị khí không điều hòa, hoặc Tì, Vị mất quân bình cho nên:
- Hoặc chủ trương bổ Âm (bổ thận thủy, bổ huyết)
- Hoặc chủ trương bổ Dương (bổ thận hỏa, bổ khí)
- Hoặc chủ trương bổ Tì.
Vì thế đã có nhiều người tóm tắt trị liệu pháp của Trung Hoa bằng bốn chữ Công, Lương, Ôn, Bổ.
Những nguyên tắc trị liệu của Lãn Ông hết sức sáng suốt và vững vàng. Trong quyển Y hải cầu nguyên nơi chương Hư Thực, ông viết đại khái như sau:
«Các bệnh nội thương càng ngày càng tăng, vì phong hóa suy đồi, tiết khí trở nên ô trọc hơn. Con người bị ảnh hưởng ngoại cảnh, càng ngày càng trở nên yếu đuối.
«Vì thế thời cổ người ta dùng các bài thuốc công phạt như Ma hoàng, Thừa khí.
«Thời trung cổ, người ta đổi phương lược, và dùng những thuốc vừa bổ vừa tả như Sâm tô thang, Nhân sâm bại độc tán.
«Sau này, Lý Đông Viên lại sáng chế ra các bài:
- Bổ trung ích khí
- Nhân sâm dưỡng vinh thang, chỉ gồm toàn vị bổ.
«Các cách trị liệu ấy, theo đà thời gian, đều có kết quả, chứng tỏ rằng cơ thể con người ngày một suy yếu hơn.
«Cho nên ngày nay những thuốc công, hạ ít được dùng, trái lại, các thuốc ôn bổ ngày một được dùng nhiều hơn.» [25]
Tuy nhiên các bệnh do ngoại thương, ngoại cảm. các bệnh thực chứng không phải là không có.
Như vậy phải có những tiêu chuẩn chính xác để phân biệt thực chứng do ngoại cảm với hư chứng do nội thương, để mà tùy nghi tả(trong trường hợp thực chứng) hay bổ (trong trường hợp hư chứng).
Lãn Ông cho ba tiêu chuẩn sau đây:
+ Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
+ Xem mạch mạnh yếu ra sao.
+ Xem bệnh diễn biến ra sao.
1. Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn như sau:
«Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» (Xem hình sắc để nhận biết người yếu hay người mạnh, để xác định là hư chứng hay thực chứng mà trị.)
Ông bình tiếp:
«Những người bẩm thụ phong hậu, tuổi trẻ, sức mạnh, khí huyết đầy đủ, xương thịt cân xứng, nếu lỡ có đau yếu thì nên lấy thực chứng mà trị.
Quan niệm về thận của Hải Thượng Lãn Ông
Quan niệm về Thận của Lãn Ông có thể nói được là hết sức độc đáo.
Quan niệm này đã được trình bày cặn kẽ trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi và trình bày sơ lược trong quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ.
Cũng như Triệu Dưỡng Quì, tác giả bộ Y Quán, và Phùng Triệu Trương (Phùng thị, khoảng 1702), tác giả bộ Phùng Thị Cẩm Nang, Hải Thượng Lãn Ông không lấy Tâm làm trọng, mà lại lấy Thận làm trọng.[2] Lãn Ông chủ trương: «Trời đất bên ngoài có Thái Cực thì thân thể con người bên trong có thận.» [3]
Chữ Thận đây không thể hiểu theo nghĩa thông thường như là một bộ phận bài tiết nước tiểu, mà phải hiểu như là một hệ thống gồm:
- Thận: cơ quan bài tiết nước tiểu.
- Mệnh môn: Một hạch nội tiết (glande endocrine), nói theo từ ngữ y học hiện nay.
Hình trích từ quyển Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne của P.Huard và Maurice, tr.295, hình D
Để vấn đề được sáng tỏ, trước hết thiết tưởng nên trình bày sơ lược về quan niệm Thận theo Đông y qua các thời đại.
1. Trước tiên Biển Thước (Tần, Việt Nhân, khoảng 225 tcn), tác giả Nạn Kinh, cho rằng:
Thận có hai trái, tả và hữu, y như trời đất có Âm Dương.
Trái bên tả là Thận; trái bên phải là Mệnh môn.[4]
Sau này, Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 cn) và nhiều danh y Trung Hoa cũng đã theo thuyết này.
2. Trương Giới Tân tức Cảnh Nhạc (1563-1640) cho rằng:
- Mệnh môn ở chính giữa (Dương).
- Hai quả thận ở hai bên (Âm).
Tất cả hợp lại thành quẻ Khảm, cũng có một hào Dương và hai hào Âm.
Quẻ Khảm và quả thận
3. Lãn Ông, theo Triệu Dưỡng Quì và Phùng thị, dựa vào quẻ Khảm và vào Thái Cực đồ, đã cho rằng Thận trong người chính là Thái Cực. Theo Lãn Ông, Thận gồm có:
- Hai quả Thận ở hai bên tả hửu, tức là hai nửa vành lớn của Thái Cực.
- Mệnh môn ở chính giữa, chủ về nam tinh nữ huyết, tức là chủ về sinh dục.
- Vòng tròn trắng bên phải gọi là Chân hỏa hay Tướng hỏa.
- Vòng tròn đen bên trái gọi là Chân thủy.
Hai vòng đen trắng: Chân thủy, Chân hỏa tướng ứng với hai chấm nhỏ trắng đen mà ta thấy trong hình Thái Cực.
Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi, Lãn Ông đã vẽ hai hình để suy diễn Thái Cực ra Thận và các bộ phận.
Trong hệ thống Thận nói trên, đối với Lãn Ông, thì chỉ có Mệnh môn, Chân thủy, và Chân hỏa là quan trọng nhất.
Quyển Huyền Tẫn Phát Vi và quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của Lãn Ông nguyên bàn về Chân hỏa, Chân thủy, các chứng bệnh do chúng phát sinh cũng như cách trị liệu.
Như đã nói, Mệnh môn gồm có ba phần:
- Mệnh môn ở chính giữa, chủ trị Nam tính, Nữ huyết, tức là có ảnh hưởng nhiều đến cơ quan sinh dục.[5]
- Chân hỏa hay Tướng hỏa, thuộc Dương, chủ trì về sinh dục của con người.
- Chân thủy, thuộc Âm, điều khiển sự chuyển hóa về huyết dịch trong người.
Chân thủy, Chân hỏa trong con người cần phải hòa hợp, cộng tác với nhau thì cơ thể mới được khoẻ mạnh, nếu như một bên mà thiên thắng, thì cơ thể sẽ mất thế quân bình và sẽ sinh bệnh tật. Một thầy thuốc giỏi chính là người biết điều hòa Âm Dương để gây lại được thế quân bình đã mất.[6]
Vì Chân hỏa, Chân thủy quan hệ bậc nhất như vậy, nên chúng ta sẽ khảo sát chúng một cách tường tận hơn.
Chân hỏa góp phần rất lớn vào công cuộc biến dưỡng nơi con người (métabolisme).
- Nó chủ trì mọi sinh hóa.
- Nó giúp cho tì vị hoạt động hẳn hoi, giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng.
- Nó giúp cho phổi được hoạt động hữu hiệu.
- Giúp khí huyết vận chuyển điều hòa.
- Nó giúp cho da thịt được săn khít.
- Nó giúp cho thần trí được minh mẫn.
a. Hỏa thịnh
Nếu hỏa thịnh (Dương thịnh), con người sẽ khoẻ mạnh, thịt xương rắn chắc.
b. Hỏa kháng (hỏa thái quá)
Nếu hỏa thái quá (kháng Dương), sự sinh hóa sẽ bị kích thích quá mức, và con người sẽ táo khát, cơ thể sẽ mất nước. Đó là trường hợp «thượng nhiệt, hạ táo» mà Lãn Ông đề cập đến trong Châu Ngọc Cách Ngôn (q.thượng, tr.3a).
c. Hỏa hư
Nếu hỏa hư, các hiện tượng sinh hóa sẽ bị đình trệ , con người sẽ trở nên yếu đuối, xanh xao, lông tóc sẽ dễ rụng, tì vị sẽ làm việc kém đi, sự tiêu hóa sẽ trở nên chậm chạp và con người sẽ bị sình hơi, trướng bụng, ăn uống khó tiêu, hay bị ẩu tả. Mặt khác, da cũng không được săn khít, khiến các khổng (sphincters) không được bền chặt, cho nên hay bị nôn mửa, đi xông, di tinh, ra mồ hôi trộm, v.v.
Hỏa hư cũng có thể làm cho con người trở nên bì quyện, hôn trầm.
Hỏa hư, Dương hư còn gây ra chứng «phù hỏa». Phù hỏa là hỏa bốc lên đầu, tan ra bì phu, trong khi đó thì chân tay lạnh, tạng phủ lạnh. Lãn Ông gọi thế là triệu chứng «thượng nhiệt, hạ hàn» (xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.1, tr.2a).
2. Chân thủy (le Principe aqueux)
Chân thủy chủ trì các sự vận chuyển tân dịch, huyết dịch trong người, làm cho cơ thể trở nên nhuần đượm, triển dương, lông tóc óng ả mầu mỡ.
a. Thủy quá thịnh
Thủy quá thịnh sẽ làm cho huyết dịch trong người trở nên úng trệ (stase, infiltration d’eau, rétention d’eau, aumentation du volume sanguin), phù thũng (oedème).
b. Thủy hư
Nếu thủy hư, âm hư, huyết dịch trong người sẽ bị giảm thiểu (hémoconcentration, réduction des liquides extra-cellulaires), chẳng những thế, các tân dịch (sécrétions) trong người cũng giảm đi.
3. Phương pháp trị liệu
Phương pháp trị liệu ở đây là phải điều hòa Âm Dương.
a. Bổ thủy
Nếu hỏa thịnh, thủy hư, sẽ bổ thủy. Bổ thủy để chế Dương quang (bổ thủy dĩ chế Dương quang).
b. Bổ hỏa
Nếu thủy thịnh, hỏa hư, sẽ bổ hỏa. Bổ hỏa để dẫn hỏa qui nguyên, bổ hỏa để tiêu trừ sự u ám, khuất lấp của Âm (dẫn hỏa dĩ phản nguyên; bổ hỏa dĩ tiêu Âm ế).
Bổ hỏa bằng bài bát vị ; bổ thủy bằng bài lục vị.
c. Bát vị
Bài bát vị do Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) sáng chế ra để chữa cho Hán Vũ Đế. Bài bát vị gồm 8 vị như sau:
* Bổ Âm (-) = 1. Đơn bì, 2. Phục linh, 3. Trạch tả.
* Bổ Dương (+) = 4. Quế, 5. Phụ.
d. Lục vị
Tiền Ất (thế kỷ XI, khoảng 1093) chuyên trị về nhi khoa đã bỏ hai vị Quế và Phụ trong bài bát vị nói trên mà chế thành bài lục vị.
Thoạt tiên Tiền Ất dùng bài lục vị để bồi bổ cho trẻ con mau lên cân, chóng lớn.
Sau này các danh y mới dùng lục vị để bổ thủy.
Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi ta thấy Lãn Ông chỉ dùng có hai bài bát vị và lục vị nói trên với những biến đổi gia giảm mà chữa được vô số kỳ bệnh, quái bệnh.
Tóm lại, đối với Lãn Ông:
- Thận là Thái Cực.
- Mệnh môn là Thái Cực.
- Thái Cực có Âm Dương.
- Mệnh môn có Chân thủy, Chân hỏa.
- Thái Cực, Âm Dương có quan trọng thế nào đối với vũ trụ thì Thận, Mệnh môn, Chân thủy, Chân hỏa cũng quan hệ đến sức khỏe con người như vậy.
Chữa bệnh mà chữa được tới căn bản, mà biết tài bồi căn bản thì lo chi bệnh không lành, người không khoẻ.
Quan niệm của Lãn Ông về Thận có rất nhiều điểm tương tự với những khái niệm mới mẽ nhất về Tuyến thượng thận (glandes surrénales; capsules surrénales; surrénales; adrenal glands) của Tây y.
1. Sự phân chia Mệnh môn của Lãn Ông ăn khớp với sự phân chia vỏ thượng thận (cortex surrénal; adrenal cortex) của sinh lý học hiện đại.
* Lãn Ông chủ trương:
- Chân hỏa chủ trì về sinh khí, sinh lực trong con người.
- Chân thủy chủ trì huyết dịch trong người.
- Mệnh môn chủ trì về sinh dục.
* Khoa sinh lý học ngày nay chủ trương:
Vỏ thượng thận gồm 3 phần:
- Vùng chùm (Zone fasciculée du cortex surrénal) tiết ra những chất glucocorticoðdes (như Hydrocortisone hay composé F. cortisone) ảnh hưởng rất sâu xa đến sự biến dưỡng (métabolisme) của chất đạm, chất thịt (matière protidique), chất đường (matière glucidique) và chất mỡ (matière lipidique) trong cơ thể và như vậy ảnh hưởng đến sinh lực trong người.
- Vùng võng đới (Zone réticulée du cortex surrénal) tiết ra những chất Minéralocorticoides (như Aldostérone, Désoxycorticostérone) ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch của các chất điện giải (électrolytes) như Na (Sodium), K (Potassium), và Cl (Chlore); và như vậy, ảnh hưởng lớn đến số lượng tân dịch, huyết dịch trong người (métabolisme hydrique).
- Vùng đới cầu (Zone glomérulaire du cortex surrénal) tiết ra những kích thích tố sinh dục (như Hormone androgène, Hormone oestrogène, progestrérone, v.v.) nhưng với số lượng rát ít, sánh với dịch hoàn (testicules) và buồng trứng (ovaires).
2. Các bệnh trạng mà Lãn Ông mô tả về Mệnh môn cũng tương tự như những bệnh trạng mà Tây y hiện nay mô tả về vỏ thượng thận.
a. Lãn Ông cho rằng nếu hỏa hư thủy thịnh, huyết dịch trong người sẽ ứ đọng, con người có thể sinh đàm suyễn, hay phình nước.
Nếu ta cho bệnh nhân dùng nhiều chất Désoxycorticostérone (thủy thịnh), ta cũng thấy những triệu chứng như trên (oedème, alcalose avec respiration superficielle).
b. Lãn Ông cho rằng nếu Tướng hỏa mà hư, con người có thể trở nên hôn trầm bì quyện, ăn uống khó tiêu; dễ ẩu, dễ tả; hoặc bị di tinh (spermatorrhée), bất lực (impuissance); thịt nhão, hay mệt, hay đau bụng, đau người vì khí huyết chuyển vận không được điều hòa.
Nếu Chân thủy hư, con người sẽ ngày một trở nên khô kiệt (dessication progressive) hoặc mắc phải những chứng huyết khô (hémoconcentration), gầy rạc (maigreur, cachexie).
Trong bệnh Addison (bệnh lao tuyến thượng thận), các vùng thượng thận đều bị thương tổn, ta thấy:
+ Những triệu chứng Âm hư như:
- Sự biến loạn trong sự chuyển dịch của nước và máu (pertubations du métabolisme de l’eau, hémoconcentration).
- Gầy rạc (cachexie progressive).
+ Những triệu chứng Dương hư như:
- Mệt mỏi (asthénie).
- Ẩu (=nôn mửa), tả (vomissement et diarrhée).
- Người lạnh (hypothermie).
- Bất lực (impuissance), vô tự (=vô sinh, stérilité).
- Đau bụng.
- Ngất (lypothymie), hôn mê (coma), xỉu (collapsus).
c. Lãn Ông cho rằng có nhiều bệnh trạng sinh ra là do sự mất quân bình của thủy hỏa.
Gần đây giáo sư Seylie cũng chủ trương rằng trước sự tấn công đa diện (situations stressantes) của tà khí, thất tình, tai nạn, vi trùng, độc tố, nhiều khi con người phản ứng lại một cách bừa bãi, không thích nghi; chính vì thế mà cơ thể bị giao động thác loạn, chấn kích nên sinh bệnh.
Những bệnh chứng do sự giao động, chấn kích, thác loạn ấy, truy nguyên là do não thùy (hypophyse) bị kích thích nên đã phát tiết ra những kích thích tố như hormone corticotrope (ACTH), hormone somatotrope (STH). Những kích thích tố này sẽ kích thích những vùng của vỏ thượng thận (cortex surrénal) làm cho nó tấy lên (hypertrophie) và tiết ra những chất glucocorticoðdes, ảnh hưởng đến sự biến dưỡng (métabolisme) và minéralocorticoðdes ảnh hưởng đến tân dịch (sécrétion), huyết dịch (sang et liquides extracellulaires).
Như vậy các bệnh do sự phản ứng bừa bãi (syndrome de mal-adaptation, syndrome d’adaptation) sinh ra cũng là do sự mất quân bình giữa thủy (hormones minéralocorticodes) hỏa (hormones glucocorticodes).
d. Lãn Ông chủ trương rằng: Trẻ con thời «thuần Dương vô Âm» nên sự biến dưỡng rất dễ bị kích động, huyết dịch rất dễ bị suy vi, vì thế chỉ được dùng lục vị (cf. Châu Ngọc Cách Ngôn, tr.38).
Những người lớn thì hai khí Âm Dương quân bình hơn.
Còn những người già thì Âm Dương nhị khí đều suy.
Giáo sư Seylie cũng viết: «Trẻ con phản ứng mạnh, nên mau bệnh cũng như mau lành. Người lớn phản ứng ít hơn nên quen với các sự kích động của ngoại cảnh. Còn những người già thì yếu ớt đối với bệnh tật và các sự chấn kích của cuộc đời, vì thế nên dễ chết.» [9]
Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài coi Thái Cực trong thân người là Thận và Mệnh môn, vì Thái Cực phải là toàn thể con người, không phải là cái trứng nguyên thủy khi thụ tinh và bắt đầu phân hóa.
Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài cho rằng Mệnh môn đã có trước tất cả các tạng phủ, vì theo khoa phôi thai học (embryologie) ngày nay, thực tế không phải như vậy.[10]
Nhưng ta không thể không bái phục ngài, vì ngài đã đi từ Thái Cực, từ quẻ Khảm mà suy ra được Mệnh môn cùng với Chân thủy, Chân hỏa, và áp dụng Dịch lý để suy diễn ra các trạng thái Âm Dương suy thịnh trong con người.
Tây y đã dùng khoa giải phẫu, dùng kính hiển vi, dùng các phương pháp khoa học mà khám phá ra được vỏ thượng thận (cortex surrénal) và các công năng của nó.
Nhưng khi ta đối chiếu lại kết quả của hai đàng cũ mới, thì thấy đôi bên cũng không mấy khác nhau.
Đó chẳng phải là điều đáng làm cho chúng ta bỡ ngỡ hay sao?
Ngoài ra cũng phải ghi nhận rằng Lãn Ông và Phùng thị đã bàn về Mệnh môn, đã chữa về thủy hỏa từ thế kỷ XVIII. Ấy là ta chưa muốn nói rằng quan niệm về Mệnh môn đã manh nha từ thời Biển Thước (225 tcn), các phương dược để trị thủy hỏa đã có từ thời Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) và Tiến Ất (thế kỷ 11).
Ngược lại, tất cả những khám phá về «Tuyến thượng thận» chỉ có từ thế kỷ XIX đến nay.
Các bài bát vị, lục vị đã có từ thời Trọng Cảnh (thế kỷ II tcn) và Tiền Ất (thế kỷ XI cn), còn các chất ACTH, STH, Cortisone, Hydrocortisone, và Désoxycorticostérone mới được tinh chế khoảng chứng mấy chục năm nay.
Thiết tưởng những bài thuốc hay như bát vị, lục vị, những bài thuốc tỏ ra hiệu nghiệm từ nhiều thế kỷ qua rất đáng được chúng ta quan tâm mà khảo sát lại.
Giáo sư Huard cho rằng khi so sánh Mệnh môn của Lãn Ông với các Tuyến thượng thận của Tây y, tôi đã có hảo ý muốn bắc một nhịp cầu giữa Đông y và Tây y.[11] Tôi xét mình chưa xứng đáng với lời khen tặng đó.
THE «KIDNEYS» IN ORIENTAL MEDICINE by NGUYEN VAN THO
According to Oriental medicine, the «kidneys» are not only the two pea-shaped organs of modern anatomy. With this word, one must conceive a complicated system, including the genito-urinary tract and the endocrine glands, the adrenal cortex in particular.
The author, analysing two volumes of Lan Ong’s encyclopedia, suggests that the right kidney, known in traditional medicine as the «Gate of Life» with its three elements (thermal, aqueous, and sexual) might be likened to the three historical zones of the cortex, namely the zona glomerulosa, the zona fasciculata, and the zona reticularis.
(Phuong Dong, November 1972, No 17)
|
07 tháng 12 2013
Cây húng chanh
13-09-201210:56:00 |Theo SK & ĐS
Húng chanh có vị cay, tính ấm và có tác dụng trừ đờm, tiêu độc rất tốt nên có thể được dùng làm thuốc chữa ho, trị viêm họng hiệu quả.
- Không dùng thuốc có hoa cúc chữa cảm cho trẻ
- Lá xương sông: bài thuốc hay chữa ho, viêm họng
- Hoa mai khô chữa ho
Húng chanh còn gọi là rau tần dày lá, rau thơm lông. Húng chanh có chứa tinh dầu giàu hợp chất phenol, salixylat eugenol và sắc tố đỏ colein, kháng sinh mạnh.
Theo Đông y, húng chanh tính ấm, vị cay thơm, hơi chua, thơm mùi chanh, có tác dụng lợi phế, trừ đờm, giải cảm, tiêu độc. Thường dùng làm thuốc chữa bệnh đường hô hấp, ho, viêm họng, hen suyễn, trị ong, kiến, bọ cạp đốt.
Cách dùng húng chanh trị bệnh:
Ho, viêm họng, khản tiếng: Húng chanh, kinh giới, tía tô, hẹ, gừng tươi mỗi thứ 8g sắc với 500ml nước, chia uống ngày 3 lần. Hoặc lá húng chanh rửa sạch, thêm chút muối, ngậm nuốt nước dần. Hoặc húng chanh 10g giã ép nước cốt uống ngày 2 lần. Với trẻ em cần thêm đường, hấp cách thủy uống.
Hen suyễn có đờm: Húng chanh 10g, lá cây bỏng 10g ép nước uống khi đi ngủ.
Chữa cảm cúm: Lá tươi nấu nước xông hoặc có kết hợp vài loại lá hương thơm khác.
Đau bụng: Vài lá húng chanh thêm chút muối, nhai nuốt nước dần.
Giảm đau nhức do bị kiến độc đốt, rết, bọ cạp đốt: Húng chanh 20g, muối ăn vài hạt, tất cả đem giã nhỏ hoặc nhai kỹ, nuốt nước, bã đắp vào chỗ đốt.
01 tháng 12 2013
Quy trình khám bệnh y học cổ truyền
QUY TRÌNH SỐ 1
KHÁM BỆNH Y HỌC CỔ TRUYỀN
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 26 /2008/QĐ-BYT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
I. ĐẠI CƯƠNG
Cũng như y học hiện đại, khi một bệnh nhân đến điều trị bằng các phương pháp của y học cổ truyền, các thầy thuốc y học cổ truyền cũng phải thứ tự thực hiện các bước như:
1. Thăm khám bệnh nhân: y học cổ truyền gọi là Tứ chẩn.
2. Chẩn đoán bệnh: y học cổ truyền gọi là chẩn đoán Bát Cương, chẩn đoán tạng phủ, chẩn đoán bệnh danh
3. Đề ra phương pháp điều trị: y học cổ truyền gọi là Pháp điều trị.
II. CHỈ ĐỊNH
Tất cả các bệnh nhân khi đến điều trị bằng các phương pháp của y học cổ truyền.
III. CHỐNG CHỈ ĐỊNH.
Những bệnh nhân mắc các bệnh không thuộc diện điều trị bằng các phương pháp của y học cổ truyền.
IV. CHUẨN BỊ:
1. Cán bộ y tế: y, bác sỹ, lương y đã được đào tạo theo quy chế.
2. Phương tiện:
* Bàn, ghế để thầy thuốc và bệnh nhân ngồi, giường để bệnh nhân nằm khi khám.
* Phòng khám cần thoáng, đủ ánh sáng tự nhiên.
3. Người bệnh
* Hồ sơ, bệnh án: Đúng theo mẫu bệnh án kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền.
* Tư thế bệnh nhân khi khám: Ngồi bên phải hoặc bên trái bàn của thầy thuốc
V. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH KHÁM BỆNH
Y học cổ truyền gọi là Tứ Chẩn.
Vậy Tứ Chẩn là gì? Tứ Chẩn là bốn phương pháp để khám bệnh của y học cổ truyền gồm: Nhìn (vọng chẩn), nghe ngửi (văn chẩn), hỏi (vấn chẩn), bắt mạch, sờ nắn (thiết chẩn), nhằm thu thập các triệu chứng chủ quan và khách quan của người bệnh.
26 tháng 11 2013
Định Ninh tôi học mạch
GIỚI THIỆU SÁCH “ĐỊNH NINH TÔI HỌC MẠCH”
Bắt mạch là 1 trong 4 nội dung để khám bệnh theo Đông Y , Vọng (nhìn, quan sát), Văn (nghe, ngửi), Vấn (hỏi bệnh), Thiết (sờ nắn, bắt mạch). Trong chẩn đoán bệnh, có những trường hợp những triệu chứng của bệnh nhân (Vọng chẩn, Văn chẩn, Vấn chẩn) và mạch (Thiết chẩn) của bệnh nhân không tương quan với nhau, thì tùy vào từng trường hợp cụ thể mà người Thầy thuốc phải bỏ chứng mà theo mạch hay là bỏ mạch mà theo chứng. Do đó bắt Mạch là một phần không thể thiếu trong khám bệnh theo Đông y.
Tuy nhiên, bắt Mạch đúng là một chuyện rất khó, bởi vì nó tùy thuộc vào cảm nhận bằng đầu ngón tay của người Thầy thuốc. Bắt mạch phải có một quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài.
Ngày xưa học nghề thuốc thì có Thầy cầm tay chỉ Mạch. Hiện nay, việc học Mạch càng khó khăn hơn, bởi vì thiếu thốn đủ thứ.
Bởi thế nên tôi xin giới thiệu với các bạn quyển sách ĐỊNH NINH TÔI HỌC MẠCH của Cụ ĐỊNH NINH – LÊ ĐỨC THIẾP, một quyển sách mà tôi cho là dễ đọc, dễ hiểu và rất có giá trị. Quyển sách này do BS HUỲNH CẨM KHƯƠNG đánh máy lại trên nguyên tắc tôn trọng bản gốc và bản quyền của tác giả, một số hình ảnh do trên bản gốc quá mờ nên tôi xin phép được thay bằng ảnh khác. Chúng tôi làm công việc này không ngoài mục đích phổ biến một tài liệu rất có giá trị nhằm giữ gìn và phát triển nền y học Đông phương.
Xin được phép và biết ơn Cụ Định Ninh!
PGS.TS.LƯU THỊ HIỆP- Trưởng khoa Đông y Bệnh viện Đa khoa Hồng đức 3
LỜI NÓI ĐẦU
Tháng giêng năm 1979 tôi giải bài đề tài Định Ninh Tôi xem Mạch tại câu lạc bộ Viện Y Dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng sáu năm 1980 đề tài này được câu lạc bộ YHDT của Sở Y Tế thành phố Hồ Chí Minh cho ấn hành. Tất cả tôi nhận được nhiều khen thưởng và khích lệ.
Từ đó tôi gặp nhiều quý vị lương y cao niên bạn, và các quý vị lương y, bác sỹ cao học vặn hỏi:
“Ông xem mạch như vậy, ông học mạch thế nào?”.
Đồng thời tôi nhận thấy các bạn tân tiến ham nghiên cứu y học cổ truyền đòi hỏi sách mạch của tôi khá nhiều.
Lý do đó khiến tập sách Định Ninh Tôi Học Mạch ra đời để nói rõ phương thức học mạch của tôi, nhằm trả lời các bậc trên và đáp lại lòng mong muốn của các bạn tân tiến.
Mở đầu vào nghề khi tôi mới 18 tuổi đã có học trình phổ thông, phụ huynh tôi chỉ dạy sơ bộ về Âm Dương, Ngũ Hành, Ngũ Tạng, Lục phủ và Thập nhị kinh lạc. Sau mới dạy tôi học Mạch. Tôi cũng chỉ để tay trên bộ Mạch lần mò phỏng đoán nói dựa. Người ngoài nhìn cho là tôi đã biết xem Mạch, thực ra tôi chẳng hiểu gì.
Tôi đọc các sách Mạch Việt văn của các vị tiền bối phiên dịch, tôi thấy ngắn gọn như cổ thư, khó tiếp thu.
Tôi đọc mấy sách mạch Hán văn lại quá thâm uyên không tìm ra đầu mối gốc rễ. khi tôi đọc mạch pháp Y Học Nhập Môn ( tác giả Nam Phong Lý Diên) tôi mới tìm ra được nhưng phương thức bắt mạch cơ bản, rành mạch.
Tôi nhìn thấy rõ một con đường học mạch khá dài, có phương thức thứ tự, không lộn xộn sau trước, không mơ màng chán nản trong tư tưởng. Tôi học mạch theo đường ấy như có người chỉ dẫn đi từ gần dần dần ra xa xa, rồi tới đích rất chính xác. Kèm theo đó trong khi tôi xem mạch cho người bệnh, tôi vẽ từng nét Mạch để suy luận và luôn luôn suy nghĩ về Mạch lý trong đầu óc. Nhờ vậy đến ngày nay tôi 80 tuổi cũng nắm chắc được ít nhiều trong Mạch học, để nói ra đây.
Phương thức thứ tự này là đầu mối, là chủ chốt để học mạch. Những mạch gia thiên tài cao giỏi gấp mấy cũng không ngoài phương thức này trước khi thông đạt: những Nạn kinh mạch, Lư san mạch cũng phải qua trình độ này mới đọc được.
Ngoài ra Thời lệnh mạch, Kỳ kinh mạch, tôi còn đang học chưa dám bàn tới. Còn Thái tố mạch là mạch xem về vận số không thuộc phạm vi xem mạch biết bệnh, không nói đến.
Nội dung ĐỊNH NINH TÔI HỌC MẠCH này chỉ trình bày phương thức thứ tự nói trên. Các bạn tân tiến ham học đọc hết mà suy luận có thể như bắt tay các bạn vào xem mạch để biết bệnh vậy.
Sau 10 năm soạn thảo và 10 tháng viết ra, nay “Định Ninh Tôi Học Mạch” đã xong. Tôi thành tâm cống hiến tâm đắc này để quý vị tham khảo.
Thành phố Hồ Chí Minh, Mùa thu năm 1981.
Lương Y Định Ninh Lê Đức Thiếp.
Trích đoạn: " .......
THIẾT CHẨN
1.ĐẠI CƯƠNG
1.1.ĐỊNH NGHĨA:
-Thiết chẩn: Xem xét bệnh bằng cách lấy 3 ngón tay của mình để vào cổ tay bệnh nhân xét mạch để biết .
1.2.5.QUAN HỆ GIỮA MẠCH VÀ KHÍ HUYẾT:
-Mạch phải có khí huyết thì mạch mới có nguồn sin lực. Nếu mạch không có khí huyết thì mạch rỗng không vô dụng.
-Khí huyết phải có mạch thì Khí huyết mới có đường hướng vận hành lưu loát. Nếu khí huyết không có đường mạch thì khí huyết vận hành hỗn tạp tán loạn.
-Mạch là chủ của khí huyết, mà khí huyết là hơi sức và Tinh thần của mạch.
-Mạch là bản thể của khí huyết, mà khí huyết là công dụng của mạch.
(Mạch là con đường để Khí Huyết lưu hành thì đường mạch là bản thể. Khi Khí Huyết đã vào đường mạch lưu hành thì Khí Huyết là công dụng của đường mạch. Ví như cái vỏ chai để đựng rượu thì vỏ chai là bản thể. Khi rượu đã đổ vào trong chai thì rượu là công dụng của chai).
-Bởi những lẽ đó mà nói rằng : “Khí huyết thịnh thì mạch thịnh, nếu khí huyết suy thì mạch suy, khí huyết hòa thì mạch bình, nếu khí huyết loạn thì mạch bệnh”. Ta xem thấy mạch thịnh thì ta biết khí huyết của người ấy mạnh.
-Ta xem thấy mạch suy thì ta biết khí huyết người ấy đã yếu.
-Ta xem thấy mạch bình, ta biết khí huyết người ấy bình thường.
-Ta xem thấy mạch bệnh ta biết khí huyết người ấy rối loạn.
-Mạch vận hành khí huyết mà khí huyết cũng vận hành mạch vậy.
(Đọc các câu này ta lại suy luận về hai chữ Thể và Dụng nói trên. Ta thấy khí huyết thịnh thì mạch thịnh, cũng như chai đầy nước thì chai nặng. Khí huyết suy thì mạch suy, cũng như chai vơi nước thì chai nhẹ v.v…)
Như vậy thấy rằng, Mạch và Khí Huyết quan hệ với nhau rất là sâu rộng và mật thiết.
1.3.NGUỒN GỐC VẬN HÀNH CỦA MẠCH
-Mạch sinh ra bởi Âm Dương, nhưng sở dĩ vận hành được là nhờ Động khí ở Thận trước.
-Động khí là thế nào?-Động khí là cái khí của nó tự động nên cũng gọi động mạch (cái khí tự động trong mạch). Khí ở Thận chuyển động trước rồi từ đấy theo mạch chuyển động vận hành các kinh, khác nào như dây tóc của đồng hồ, dây tóc có chuyển vận thì các bánh xe nhỏ mới chạy.
-Mạch vận hành mãi mãi là nhờ Thực phẩm nuôi dưỡng. Người ta ăn uống cơm nước vào, Tỳ Vị đem tiêu hóa, lọc lấy thanh khí nuôi dưỡng 12 kinh, lọc lấy “chất nhựa” nuôi dưỡng tạng phủ cơ thể. Kinh tạng nào cũng nhờ thanh khí và “chất nhựa” ấy (Tức Khí-Huyết) mà mạch vận hành mãi được. Khác nào như ta cho dầu vào các bánh xe của đồng hồ để cho nó chạy điều hòa.
-Thân thể người ta lấy “vị khí” làm gốc.
-Vị là nguồn sống của ngũ tạng và lục phủ, cho nên nói rằng “người ta khi có bệnh xem mạch thấy hãy còn Vị khí thì sống, nếu hết Vị khí sẽ chết” nghĩa là xem mạch “trung án” đi mạnh, có lực là mạch Vị khí còn, ngược lại Vị khí hết.
Tóm lại mạch vận hành bắt đầu nhờ động khí ở Thận, vận hành mãi mãi được nhờ cốc khí ở Vị (tỳ vị).
-Thận thuộc thủy, Tỳ thuộc thổ. Bởi vậy nói : “Thận là tiên thiên, Tỳ là hậu thiên”.
-Bệnh tật trong người, Nội thương Thất tình hay Ngoại cảm Lục dâm hay bệnh thuộc kinh lạc tạng phủ v.v…. đều theo sự lưu hành của Khí và Huyết báo hiệu ra đường mạch, muốn biết phải xem mạch.
Người thầy thuốc xem mạch biết được kinh lạc tạng phủ nào hư, kinh lạc tạng phủ nào thực rồi mới thành lập phương dược cho có quân thần tá sứ, mới quyết định được Huyệt đạo châm cứu và có phương hướng Bổ tả nông sâu. Vậy việc xem mạch là công việc cần thiết của người thầy thuốc.
-Mạch nải y chi thủ vụ: Xem mạch là công việc đầu tiên của người thầy thuốc.
1.4.THỜI GIAN CHẨN MẠCH
-Người xưa dạy: Thời gian chẩn mạch nên dùng những buổi sáng sớm (khoảng 5,6 giờ sáng, giờ Dần). Bởi khi ấy khí trời bình minh thanh sảng mà con người sau khi đã nằm nghỉ một đêm vừa mới thức tỉnh : Tâm tư chưa suy nghĩ gì, Tỳ vị chưa ăn uống gì, tay chân chưa hoạt động gì. Khí huyết cơ thể đang yên tĩnh, mạch máu đang lưu thông điều độ. Bấy giờ ta chẩn mạch chắc chắn sẽ thấu hiểu bệnh tình dễ dàng và chính xác. Nếu chẩn mạch sau giờ nói trên hay muộn hơn nữa, con người đã ăn uống, đã hoạt động, tinh thần đã suy tư hỗn tạp, khí huyết đã rung chuyển đường mạch nên không được chính xác bằng.
Thời gian ấy người bệnh phải giữ, nghĩa là cứ phải nằm yên tỉnh trên giường bệnh, để đợi thầy thuốc đến xem mạch. Còn người thầy thuốc cũng phải giữ thời gian ấy, nghĩa là tỉnh thức dậy đi xem mạch ngay.
-Xét ra nguyên tắc xem mạch ấy, nếu tất cả người bệnh đều giữ như thế được, thật rất hay và rất tốt. Nhưng thấy rằng, như vậy thì chỉ những người có thời gian thong thả, có hoàn cảnh thuận tiện mới thực hiện được.
-Ngoài ra những người bệnh phải cấp trị, những người có công tác đặc biệt và những bệnh viện, những dưỡng đường 8 giờ sáng mới mở cửa để thầy thuốc khám bệnh, làm sao có thể giữ được nguyên tắc thời gian ấy.
Nói tóm lại, việc chẩn trị bất luận nơi đâu, bất luận lúc nào, chỉ cần nằm yên tĩnh thì hơn.
1.5.THẤT CHẨN PHÁP (7 Nguyên tắc cốt yếu) ( xem tiếp ở phần up tiếp theo )
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)