23 tháng 2 2014

Thân - Tâm - Ý ( Bài thứ hai )


 Ở bài thứ nhất tôi đã luận giải sơ phác về phạm trù thân - tâm - ý và sự tương tác của thân tâm ý đến tổng thể vận số con người. Vấn đề lưu tâm và chú trọng của tôi trong luận giải thân - tâm - ý chính là sự vận động, cách thức vận động và mối giao hoà, liên quan giữa thân, tâm và ý đến sức khỏe con người.
   Bác Hồ, là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá lớn của nhân loại đã từng nói về sức khỏe bằng câu nói thật đơn giản, xúc tích, nhưng bao hàm ý nghĩ rất rộng lớn trong y học đó là: " khí huyết lưu thông, tinh thần thoải mái ". Khái niệm về sức khỏe ở câu nói của Bác đã bao gồm cả ba khía cạnh Thân - Tâm - Ý của con người. Thân con người ta có thể hình dung được cấu tạo tư các bộ phận và các bộ phận được liên kết, nuôi dưỡng bơi hệ thống " dung môi ". Dung môi ở đây được hiểu là bao gồm các chất dịch và các chất khí. Chất dịch gồm rất nhiều thành phần hợp lại như: huyết, bạch huyết, các dưỡng chất, ... ; Chất khí cũng bao gồm rất nhiều loại khí như oxy, cacbonic, hydroxit ... Cách nói nôm na của chúng ta thì " khí huyết " là đã bao gồm toàn bộ phần " dung môi " của cơ thể. Khi một cơ thể mà khí huyết bị ứ tắc, lưu thông kém thì các bộ phận cơ thể sẽ bị ảnh hưởng do thiếu sự liên kết, do thiếu chất nuôi dưỡng ... Và dẫn tới đau ốm. Trong đông y học cổ truyền thường có câu " Thông thì bất thống, thống thì bất thông " tạm dịch là: " lưu thông thì không đau, đau tức là không lưu thông ", cũng là nói lên cái nhân quả của khí huyết với cơ thể con người ta như cách hiểu ở trên vậy. " Tinh thần thoải mái " ơ đây cái tinh thần được hiểu bao gồm cả phần tâm và ý, tinh thần thoải mái là sự hoà hợp giữa tâm và ý, tâm không vương bận vào những lỗi âu lo, buồn bực, ( thất tình trí ) và cái ý không phải căng để suy luận, hay tính toán lựa chọn khó khăn cho những vấn đề của mình. Khi tâm và ý đều viên thành, thư thả cùng với thân không đau ốm, tật bệnh con người ta được sống hoà hợp giữa bản thân mình với cuộc sống, tận hưởng cuộc sống an vui trong kiếp sống của mình.
   Vậy, để có được sự hoà hợp của thân - tâm - ý chúng ta cần phải hiểu và làm những gì với thân, tâm và ý.
   Trước hết ta nói về tâm, tâm ở đây được hiểu là cái tâm dẫn dắt, cái tâm duyên khởi tự phát ơ mỗi người chứ không phải là cái tâm được biểu hiện qua hành động. Tâm được biểu hiện qua hành động là cái tâm đã được cái ý chuyển biến, nhào nặn và truyền đạt thông qua hành động của thân. Phương pháp thiền tứ niệm xứ của Phật pháp chính là biện pháp để thanh lọc tâm, chữa những " chưng bệnh " của tâm, hay có thể hiểu là tâm bị lệch lạc so với cái đạo lý, luân thường của con người. Cái lệch lạc, không đi theo đạo lý con người ví như là cái ác, cái tham, cái hận thù, cái si mê ... Nó làm con người ta u mê, phạm vào những tôi ác với đồng loại và chính nó lại gây bao tác hại cho ý và thân của  bản thân con người mang trong mình cái tâm như vậy, theo nhà Phật là nghiệp ác được tạo lên.
                                                               **************
   Phương pháp thanh lọc tâm là thiền quán tứ niệm xứ. Thiền tứ niệm xứ thực hiện theo một phương pháp khoa học để loại bỏ sự tạo nghiệp, giúp tâm tĩnh lặng trước mọi biến cố của cuộc đời. Nguyên lý thấu suốt của phương pháp khoa học này là dùng ý để nắm bắt các duyên khởi từ tâm, và khi sự rèn luyện của chúng ta đạt đến độ ý đuổi kịp duyên khởi từ tâm thì lúc đó ta có một tâm tĩnh lặng ( có lẽ cũng là bước sơ thiền được hình thành và cảm nhận ). Như ta đã biết là nghiệp được hình thành và hoàn tất là qua quá trình " tâm tác ý, ý khiển thân, thân hành động ", và cách thức vận hành các phạm trù này là như thế nào vậy ? Với những kiến thức sơ khai về Phật pháp và thiền tứ niệm xứ, cùng những trải nghiệm ban đầu về nghiên cứu, thực hành thiền tứ niệm xứ, tôi mạnh dạn đưa ra những kiểm nghiệm và lý giải nguyên lý và cách thức của một quá trình tạo nghiệp của mỗi người như sau:

- Bước thứ nhất: tâm dấy lên duyên khởi, các duyên khởi xuất hiện và biến hoá rồi vụt tắt không ngừng. Tất cả các lĩnh vực mà tâm muốn dẫn dắt sẽ gần như vô tình, chợt ập đến khiến những người chưa từng luyện tập thiền quán không thể nhận ra, thậm chí ngay cả với nhiều người có luyện tập thiền quán cũng khó mà nhận ra một cách rõ ràng sự xuất hiện và vụt tắt của các duyên khởi nơi tâm mình. Trong Phật pháp và thiền Phật có nhiều đoạn mục nói rằng: " tất cả sự vật, hiện tượng, ý tưởng, suy nghĩ của chúng ta luôn biến đổi và không thường hằng ...". Đây có thể gọi là giai đoạn " Tâm tạo tác ý ". Các duyên khởi cứ đến rồi đi, hiện lên rồi vụt tắt và có một hoặc rất nhiều duyên khởi được chúng ta lưu ý ( tức là có ý nghĩ suy diễn từ duyên khởi mà ta bắt gặp được ) đó chính là cách tâm tạo tác ý.
- Bước thứ hai: sau khi ta chú tám vào một duyên khởi nào đó vô tình dấy lên từ tâm, ta sẽ có sự phân tích, suy diễn và kết luận rồi truyền cái kết luận sang hành động ở thân  ( quá trình này gọi là ý ). Thường quá trình này ( chú ý, phân tích, suy diễn, ... truyền đạt hành động ) sẽ mất thời gian và các duyên khởi tiếp theo của tâm sẽ không được nắm bắt, nhưng khi ta ngơi suy nghĩ ( ý tạm lui ) thì các duyên khởi của tâm lại tiếp tục dấy lên, nếu các duyên khởi này lại có những chủ đề giống như lần trước thì nếp hằn suy nghĩ của ý càng sâu thêm về vấn đề này, dẫn tới chúng ta bận tâm rất nhiều vào một chủ đề mà tâm đã dẫn hướng một cách liên tục. Rồi nếu các truyền đạt từ ý đến thân được xác định một cách chắc chắn, lúc này thân hành động và có thể hoàn tất việc tạo nghiệp theo chủ đề được dấy lên ở tâm như đã nói ơ trên.
- Bước thứ ba: khi thân nhận được lệnh qua ý truyền đạt đến, thì thân sẽ hành động. Sự hành động của thân thật biến hoá và muôn hình muôn vẻ. Vận động của thân ơ đây được hiểu bao gồm cả những hành động được cảm nhận thấy từ bên ngoài và những vận động của cơ thể ở bên trong mà bằng các phương pháp thông thường ta không thể cảm nhận được. Ở bên ngoài nhận thấy được như: chạy, nhảy, đấm đá, cười, khóc,.... Nhưng ở bên trong cơ thể thì thật khó mà nhận biết, ví dụ như: các duyên khởi đó gây nên sự uất ức, bực tức, âm thầm lâu ngày có thể dẫn tới can đau chương, thổ huyết, mất ngủ ...., nếu gây ra sự vui mừng thái quá thì dẫn tới ảnh hưởng tim, mạch,....
                                                         
                                                           ***********
   Qua sự phân tích về các bước tạo nghiệp ở trên và cùng với nghiên cứu cách thức thực hiện thiền quán tứ niệm xứ tôi nhận thấy rằng nguyên lý của việc thanh lọc tâm, và trở về tâm tĩnh lặng hay nói một cách khác là dừng lại sự tạo nghiệp là không cho y có khoảng thời gian để suy luận, phân tích và truyền đạt đến thân. Hiểu đơn giản là ta luyện tập sao cho ý biến đổi cùng với tâm. Khi ý theo kịp sự biến đổi của các duyên khởi từ nơi tâm thì ý không còn thời gian để tạo nghiệp. Nhưng cũng có lúc tâm rơi vào khoảng lặng và như vậy thì duyên khởi chưa xuất hiện, đồng thời mỗi một ý nghĩ của chúng ta xuất hiện rất nhanh, chúng có thể chèn vào khoảng trống này và có thể làm phân tán ý của chúng ta, khiến quá trình luyện ý rất khó khăn. Thường ở khoảng trống này thì các tác động của môi trường xung quanh cũng như bản thân ta xâm nhập vào ý hoặc cuốn tâm ta đi theo để tạo duyên khởi mới, ví dụ như: tiếng gà gáy trong đêm, cảm giác lạnh của cơ thể ta do trời lạnh, cảm giác mỏi các khớp, đau lưng,.... rồi hơi thở đều đều của ta. Ngay lập tức ta phải điều ý tiếp cận các tác động này ( thực chất nó là duyên khởi ), đặc biệt là quán niệm hơi thở bởi hơi thở là một tác động đều đặn, có chu kỳ lên tâm và ý, khi có hoặc không có các duyên khởi hiện lên từ tâm, đồng thời nó đồng hành bất ly thân với chúng ta ( đương nhiên khi chúng ta đang sống ). Ở thiền quán tứ niệm xử thì cách điều ý bám sát các duyên khởi ( có thể hiểu bao gồm cả các tác động của môi trường, cơ thể lên tâm và ý ) là dùng việc niệm các duyên khởi khi ý nhận thấy một cách liên tục và chuyển nội dung niệm phù hợp khi một duyên khởi mới xâm nhập vào ý.
   Bằng cách thiền quán theo thiền tứ niệm xứ như nói ở trên, chúng ta dần dần cảm thấy sự tách biệt của tâm và ý, hoặc tâm và ý với thân. Ví dụ: trường hợp khi ta đang mải niệm  để ý đuổi kịp các duyên khởi dấy lên từ tâm thì lại thấy cơ thể mình tự xoay, lật trở mình ( do tư thế thiền quá lâu gây mỏi ở thân ) cảm nhận được rõ là động tác lật trở mình này không do ta điều khiển vậy. Khi thấy hiện tượng này chúng ta không nên hoang mang, sợ hãi bởi đó chỉ là cách vận hành bình thường, hàng ngày của thân - tâm - ý mà khi không luyện thiền thì chúng ta không thể nhận ra.

( mời xem bài tiếp theo ... ơ đây )



22 tháng 2 2014

Thân - Tâm - Ý ( Bài thứ nhất )




Lời giới thiệu

   Tôi sẽ chắp bút viết về Thân - Tâm - Ý, là ba tố thành của con người được nhận biết qua cách thức tạo nghiệp của mỗi người từ việc suy ngẫm Phật pháp và thiền Phật.Từ cách thức tạo nghiệp đó sẽ vận dụng cho việc giữ gìn, bảo vệ sức khỏe của bản thân mỗi chúng ta. Sức khỏe ở đây được hiểu bao gồm cả tâm hồn và thể xác, và phương pháp tác động dựa trên các quy luật vận hành của cặp phạm trù Thân - Tâm - Ý tồn tại trong con người chúng ta. 

 Thú thực là tôi cũng có những chút thời gian rảnh rỗi ở thời điểm này, cùng với các ý tưởng dẫn dắt và sẵn niềm đam mê diễn giải, thực hành các ý tưởng nên nhiều lúc cứ đi từng đoạn, từng đoạn một trên con đường mà " duyên khởi " đã vạch ra để chiêm nghiệm. Về bản thân thì trải nghiệm thiền Phật chỉ mới là những bước đi chập chững, tự phát ban đầu, cùng việc trải nghiệm đời mới đang độ " trung niên " không tránh khỏi những ngộ nhận và khiếm khuyết, những suy diễn còn khiên cưỡng chưa thấu tình đạt lý... nhưng tôi vẫn viết và đăng lên đây, phần vì duyên ý tự bản thân cảm nhận thấy sự thúc giục, phần muốn đăng lên để mọi người vào đọc tham khảo và cho ý kiến, tôi rất trân trọng và cảm kích với những ý kiến đóng góp quý báu của các quý vị !

Bài thứ nhất ! 

  Thân là thân thể con người ta, bao gồm tất cả các bộ phận cơ thể, các tế bào tạo lên các bộ phận, hệ thống " dung môi " bao bọc, liên kết và nuôi dưỡng các bộ phận của cơ thể, các loài ký sinh trùng, vi rút, vi khuẩn sống trên thân thể chúng ta ...

  Tâm là những ý tưởng dẫn dắt, những xúc cảm khởi phát, những hoài niệm bất chợt ... Nằm ngoài tầm kiểm soát của chính bản thân ta, có thể khơi dậy những tiềm năng, xúc cảm ẩn chứa trong ta ... gọi chung là " duyên khởi "

  Ý là những suy nghĩ, suy diễn, phân tích, phán đoán, chỉ đạo hành động ... nhiều lúc cảm nhận rất rõ ý bám sát và triển khai ý tưởng của tâm. Ý là sự truyền tải từ sự lĩnh hội những dẫn dắt vô tình từ tâm để đến khắp cơ thể và biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động, lời nói, cử chỉ, việc làm ... Cũng có những biểu hiện nhận thấy của cơ thể được truyền đạt trực tiếp từ tâm đến cơ thể, đến hành động hoặc ý nghĩ mà chúng ta thường gọi là tâm ( đây chỉ là một phần ta nhận thấy của tâm biến ảo biểu hiện ra bên ngoài, còn phần lớn tâm ẩn dấu để dẫn dắt ý và từ ý truyền đạt chỉ đạo thân ).

... 

   Một thân thể khỏe mạnh, một tâm hồn thanh cao, cùng những hành động cao cả là một sự hoà hợp đỉnh cao của thân - tâm - ý của một con người.

   Nếu một thân thể khỏe mạnh, nhưng luôn dẫn dắt bởi những suy nghĩ tàn ác, bất nhân cộng với cái ý chí mạnh bạo sẽ gây bao cảnh đau khổ, loạn ly trong cuộc đời.

   Một thân thể ốm đau, tật, bệnh nhưng luôn dẫn dắt bởi một cái tâm trong sáng, luôn vươn lên cùng một ý chí mạnh mẽ, minh mẫn thì cuộc đời con người này vẫn sẽ được hưởng ánh hào quang của thành công và có thể vượt qua, hồi phục được tình trạng thân thể của mình.

   Có câu: " cha sinh con, trời sinh tính " ấy là câu nói của người  xưa ám chỉ cái tâm dẫn dắt con người ta như là có sẵn. Còn như câu: " tâm hồn đứa trẻ như một tờ giấy trắng, ta viết gì lên thì nó sẽ là vậy " lại mang đậm yếu tố tạo dựng, gây dựng, rèn dũa cái ý ( ý chí, ý thức rèn luyện mà có ) trong một con người. Có câu triết lý : " làm nhiều thành thói quen, thói quen lâu ngày thành ý thức, ý thức lăp đi lặp lại thành nhân cách ". Ở đây thì nhân cách chính là cái tâm dẫn dắt định hướng cho ý và thân, như vậy là từ hành động, ý chí của ta làm chuyển biến cái tâm của chính ta.

   Phật từng nói về thiền tứ niệm xư : " ... đây là con đường triệt tiêu tâm bệnh và thân bệnh ..." Và khi đọc những phần trong kinh của nhà Phật chúng ta luôn thấy ẩn hiện cặp phạm trù thân - tâm - ý. Cái ý trong Phật pháp thường được nhắc đến là cái ý tác thành hành động khi được tiếp nhận duyên khởi từ nơi tâm, và toàn bộ một nghiệp được tạo thành sẽ đầy đủ từ cái tâm dẫn dắt, cái ý tác thành và sự vận hành ra hành động của thân. " tâm tác ý, ý khiển thân, thân hành động " là một chu kỳ tạo nghiệp vậy.
( mời xem bài tiếp theo ở đây



28 tháng 1 2014

Lời khuyên của Hải Thượng Lãn Ông và ngày Tết

Giữ gìn sức khỏe ngày Tết theo lời khuyên của Hải Thượng Lãn Ông

Nói về sức khỏe của con người, Hải Thượng Lãn Ông xác định: tinh thần và thể chất được luôn luôn khang kiện thì sẽ tận hưởng tuổi thọ ngoài 100. Từ thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông đã đúc kết những kiến thức cơ bản về sức khoẻ cho người dân thường:
1. Về tâm sinh lý con người cũng cần phải điều độ, thư thái vì:
Tức giận quá sẽ hạn can
Vui mừng quá hại tâm
Buồn lo quá hại phế
Kinh sợ quá hại thận
Suy nghĩ quá hại tỳ.

2. Về ăn uống:
Vệ sinh ăn uống trước tiên
Khuyên ăn thanh đạm, khuyên kiêng đậm nồng
Thức ăn dùng phải có chừng.
Ăn nhiều tán khí, biết phòng mới hay
Các vị mặn, nồng, đắng, cay
Ăn nhiều sinh bệnh chẳng sai đâu mà
Đắng nhiều hại phế, khô da
Mặn nhiều tâm lạnh, máu đà phải ngưng
Quá chua can động rút gân
Qua cay chai thịt, môi quăn hại tỳ
Ngọt nhiều cũng chẳng ích gì
Tỳ chen thận yếu, xương tê, tóc cằn”.

“Vừa chừng gia vị thì nêm
Hễ người táo nhiệt chớ quên kiêng dùng”

“Muốn cho ngũ tạng được yên
Bớt ăn mấy miếng nhịn thèm hơn đau
Ăn no thì chớ gội đầu”

“Luận về trầu thuốc rượu chè
Từng dùng thiết đãi bạn bè vui thay”.

Ăn uống điều độ, đúng cách sẽ khiến cho bạn có tuổi thọ cao và tinh thần làm việc tốt

Ông đả phá hút thuốc vì:
“Hút vào uất hoả hôi mồm
Họng khô, phổi ráo, tích đờm, sinh ho
Khí hao huyết tụt chẳng ngờ
Ung thư, kết hạch, nguy cơ có ngày.
Hại nhiều lợi ít rõ thay”.

Còn uống rượu thì sao?
Khi uống rượu:
“Rượu nồng tính nóng hơi cay
Dở chua, dở ngọt vị hay lạ thường.
Uống vào tai mặt đỏ bừng
Tâm thần rung động, bàng hoàng nói năng
Cường dương, trúng đởm chi bằng

Nhưng  uống rượu nhiều khi có hại:
“Rượu say mê muội tinh thần
Khiến người làm bậy, làm càn hại thay...”

“Say nhiều nôn mửa, bỗng dưng mê trầm
Hơi men nung nấu can tâm
Đau đầu thở huyết, họng sưng, mắt mờ
Biến sinh cước khí, ung thư
Phế suy, tâm hoảng, gan khô, da vàng
Lâu ngày thấp nhiệt huân chung
Biết nên vị thống, trường phong gân mềm”.

Tóm lại:

“Rượu làm khí lực hao mòn”. Hải Thượng Lãn Ông khuyên dùng rượu để sao tẩm thuốc, ngâm rượu thuốc,... Uống ít thì có thể tốt cho sức khoẻ nhưng uống nhiều sẽ rất có hại.

Với tấm lòng nhân ái, Hải Thượng Lãn Ông luôn “Mong đời người không có bệnh”. Phòng bệnh có rất nhiều biện pháp, nhưng cái gần gũi là ăn uống và sinh hoạt thì lại ít được quan tâm.

Ngày Tết đã cận kề, vui là điều quan trọng nhưng chúng ta hãy chú ý đến sức khoẻ ngay từ việc ăn uống. Một cơ thể khoẻ mạnh là cơ thể không có bệnh tật.


17 tháng 1 2014

Luận âm dương và ý nghĩa của Thái cực đồ trong y học



Bài mở đầu ( ngày 17/01/2014 )
 Mỗi lần đọc sách về Đông y của các bậc đại danh y thời xưa tôi lại nhận thấy thấp thoáng hoặc trực diện các vấn đề về âm dương, thời gian trôi đi và quá trình tích lũy kinh nghiệm sống cũng như những phân tích và suy diễn cứ dần dần bồi đắp, tích tụ ... Và rồi rất nhiều vấn đề gợi mở khi đi sâu vào nghiên cứu những ẩn ý trong hình ảnh thái cực đồ. Thực ra thì hướng đi là phía trước, nhưng luận giải và viết ra thì vừa suy nghĩ vừa chép lại suy nghĩ của mình. Có những lúc ý tưởng chợt đến, thật bất ngờ và chuẩn xác ngay khi viết lại và có những lúc ý tưởng đến nhưng rất khó triển khai được cách diễn giải. 
Chính việc mò mẫm từng bước theo ý tưởng dẫn dắt và kinh nghiệm sống còn nhiều mặt hạn chế nên còn có nhiều vấn đề, khía cạnh được diễn giải theo suy diễn chủ quan khiến bản thân chưa thấy thấu tường, đạt lý. Mặc dù vậy, tôi vẫn đăng các bài viết của mình lên blog này thứ nhất là để mọi người tham khảo, thứ hai là xin lĩnh hội ý kiến, cao kiến của tất cả mọi người để chúng ta cùng nhau tìm ra những chân lý của các vấn đề một cách khoa học, đúng đắn nhất và cũng mong giúp ích được phần nào đó trong công việc của mỗi người !
Âm và dương là hai mặt của bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trên thế gian này, đó là điều mà ai cũng biết. Từ xa xưa, loài người của chúng ta đã cảm nhận  thấy sự hiện diện của âm và dương rồi từ đó dùng biểu tượng, tượng hình để mô phỏng, mô tả cũng như diễn tả về âm dương. Chính cái trí tuệ mà con người được giới tự nhiên ban cho thật sâu sắc, nhưng phương pháp và cách thức thể hiện thật thô sơ của thủa sơ khai đã tạo lên một Thái cực đầy bí ẩn, mênh mông và mê hoặc ( đây là sự thật hay là điều ngược lại khi nói cách thức thể hiện hình tượng Thái cực đồ là thô sơ ? trong khi từng đường nét phân chia, từng mảng màu từng hình dạng hình học lại logic một cách huyền bí, hài hoà chứa đựng bao ẩn ý trong các lĩnh vực mà bao đời sau chưa thể lý giải hết được ? )...
( còn tiếp )

16 tháng 1 2014

Bài ca thuốc giải biểu bằng chữ Hán



Nhiệt hà hoa tử tang nhĩ căn
Hàn ma sinh quế kinh bạch tía
Thấp phòng khương độc khoan thiên uy
Tang tang thổ mộc thương thương nũ
Lá lốt hy thiêm ngũ gia bì !


Các vị thuốc giải biểu trong bài ca này gồm:
Bạc hà, cúc hoa, mạn kinh tử, tang diệp, nhĩ hương thảo ( lá cây cối xay ), cát căn.
Ma hoàng, sinh khương, quế chi, kinh giới, bạch chỉ, tía tô.
Phòng phong, khương hoạt, độc hoạt, khoan cân đằng, thiên niên kiện, uy linh tiên, tang chi, tang ký sinh, thổ phục linh, mộc qua, thương truật, thương nhĩ tử, trinh nữ thảo ( hàm tu thảo ), lá lốt, hy thiêm, ngũ gia bì.
Ngoài gia còn một số vị như: sài hồ, thăng ma ( phát tán phong nhiệt ), tế tân ( phát tán phong hàn ), tần giao ( phát tán phong thấp )...

13 tháng 1 2014

Bệnh đến từ đâu ? Điểm khởi phát bệnh !


- Nếu khởi bệnh bắt đầu từ các tác nhân bên ngoài xâm nhập vào bên trong ( ngoại cảm tà khí ) thì tổn thương đầu tiên là phế, bắt đầu xuất hiện các triệu chứng như sốt, ho, sởn gai ốc ( nỗi da gà ), gấy rét,  ... Nếu không chữa trị kịp thời sẽ dần dần xâm nhập các tạng phủ khác, dẫn đến bệnh nội thương, bệnh tình trở nên nặng và khó chữa trị.
- Nếu khởi bệnh bắt đầu do ăn uống không điều độ, lao lực quá mức ... Thường làm tổn thương tỳ vị, xuất hiện ăn kém, bụng đau chướng đầy, người mệt mỏi, đại tiện nhão nát ...
- Nếu khởi bệnh bắt đầu do rối loạn tình chí, căng thẳng tinh thần, hay lo nghĩ kéo dài .. Thường dẫn đến tổn thương tâm và can, xuất hiện các triệu chứng tinh thần mệt mỏi, căng thẳng, mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, mắt thâm quầng ...
- Nếu khởi bệnh trên cơ thể đang mắc bệnh mạn tính dẫn đến suy nhược, ở người kết hôn sớm, tình dục quá độ... Thì đa phần ảnh hưởng đến thận. Trên lâm sàng xuất hiện các triệu chứng: lưng đau, gối mỏi, hình thể gầy mòn, tinh thần mệt mỏi, nam giới có thể di tinh, nữ giới có thể rối loạn kinh nguyệt ...

06 tháng 1 2014

Một số bài thuốc ngâm rượu dùng để xoa bóp

Dùng một số vị thuốc đông y ngâm trong bình hoặc lọ kín với rượu sẽ cho ra những dược tửu xoa bóp hữu hiệu nhằm dự phòng và điều trị các chứng đau mỏi gân xương, cơ khớp… hay gặp trong những ngày đông lạnh giá.
Rượu thuốc (dược tửu) là một chế phẩm hết sức độc đáo của y học cổ truyền. Việc dùng rượu thuốc để trị bệnh và bồi bổ đã có từ lâu. Có loại rượu thuốc sử dụng để uống và có loại xoa bóp bên ngoài. Mỗi loại đều có những nguyên tắc bào chế và cách sử dụng riêng nên phải hết sức chú ý khi tự bào chế. Có thể mua rượu thuốc xoa bóp đã bào chế sẵn bán ở các nhà thuốc đông y hoặc các phòng khám y học cổ truyền. Cách này tuy tiện lợi nhưng sẽ khó cho người bệnh kiểm soát được chất lượng an toàn của quá trình ngâm rượu. Vì vậy trong dân gian nhiều gia đình có thói quen sử dụng thuốc đông y vẫn hay thiên về cách tự bào chế hơn. Chỉ những bài thuốc rượu nào quá phức tạp, vị thuốc khó tìm, đòi hỏi quy trình nghiêm ngặt họ mới tìm mua thành phẩm.
Khi tự bào chế rượu thuốc, phải biết rõ tên vị thuốc và quy cách, đề phòng loại cây cùng tên mà khác thuốc hoặc cùng thuốc mà khác tên. Đối với một số phương thuốc lưu truyền trong dân gian, nếu muốn bào chế phải hỏi kỹ thầy thuốc để tránh sử dụng nhầm gây hậu quả nguy hiểm. Trên tất cả, phải biết chọn dùng phối hợp những vị thuốc nào và phương cách chế biến ra sao thì mới mong có được những loại rượu thuốc xoa bóp vừa đơn giản lại vừa có hiệu quả như mong muốn:
Rượu thuốc ngô công: Dùng con rết nhà (ngô công) hay rết rừng loại lớn, nhiều chân, dài từ 7 – 13cm, đầu vàng, lưng đen, chân bụng đỏ vàng. Nếu rết to chọn một hoặc hai con; rết nhỏ lấy từ ba đến bốn con. Cồn 900 một lượng khoảng 150ml. Bắt được rết, lấy nước nóng già 70 – 80oC đổ vào. Sau đó đem rửa nhiều lần rồi cho vào ngâm với cồn. Thời gian ngâm từ 30 – 90 ngày, càng ngâm lâu càng tốt. Lọc, đóng chai. Rượu rết có tác dụng xoa bóp các trường hợp đau nhức, phong thấp, té ngã tụ máu. Rượu còn có thể xoa vào chỗ mụn nhọt mới mọc cho tan. Tẩm bông xoa lên chỗ rắn cắn để giải độc.
Rượu thuốc thảo dược: huyết giác 40g, đại hồi 12g, quế chi 12g, địa liền 20g, thiên niên kiện 20g, long não (tán bột) 15g, cồn 700 một lít. Tất cả các vị thuốc tán thành bột ngâm trong cồn khoảng một tuần. Mỗi ngày khuấy một lần, gạn lấy kiệt nước, cho thêm bột long não vào khuấy cho tan hết bột. Đóng chai. Loại rượu này giúp chữa sưng tấy, tụ máu, bầm tím, bong gân, nhức xương, đau khớp.
Tuyệt đối không được uống
Các loại rượu thuốc xoa bóp chỉ được dùng ngoài da, tuyệt đối không được uống bởi đa số các vị thuốc dùng làm rượu thuốc xoa bóp đều có tính độc. Nên dán nhãn lưu ý tác hại ngoài chai. Ngoài ra, khi sử dụng rượu thuốc để xoa bóp không nên bôi vào các vết thương đã chảy hay rỉ máu. Cách sử dụng tốt nhất là tẩm rượu vào bông hay miếng gạc, xoa lên chỗ đau sưng rồi xoa bóp.
Rượu huyết giác: Huyết giác 20g, quế chi 20g, thiên niên kiện 20g, đại hồi 20g, địa liền 20g, gỗ vang 40g. Các vị thuốc tán nhỏ, cho vào chai cùng với 500ml rượu trắng, ngâm khoảng một tuần, lấy ra vắt kiệt, bỏ bã. Rượu có công dụng tốt cho những trường hợp bị thương do đánh đập, té ngã, đau tức, bầm máu… Trong dân gian còn dùng chữa đau mỗi khi lao động nặng hoặc đi đường xa sưng chân.
Rượu thuốc long não: Long não 100g, cồn 900 khoảng một lít. Hòa tan long não vào cồn. Sau đó lọc, đóng vào chai. Loại rượu này có công dụng xoa bóp giúp đánh tan các chỗ tụ máu, nhức mỏi mình mẩy.
Rượu thuốc hồng hoa: Hồng hoa (cây rum) 12g, đào nhân 20g, xuyên khung 50g, đương quy 50g, thảo ô 20g, hạt tiêu 50g. Các vị thuốc tán vụn, ngâm với một lít rượu trắng, sau ba ngày dùng được. Rượu hữu hiệu với các chứng đau nhức, tê bại, máu ứ bầm tím, nhức mỏi.
Rượu thuốc ngải cứu: Ngải cứu 6g, đương quy 12g, độc hoạt 12g, khương hoạt 12g, thiên niên kiện 10g, hồng hoa 8g, tô mộc 12g, nhục quế 8g, tần giao 12g, huyết giác 12g, mộc qua 10g. Các vị tán vụn, ngâm với 1.000ml rượu trắng, sau bảy ngày là có thể dùng được. Rượu có công dụng tốt để xoa ngoài khớp bị tê thấp hoặc những nơi đau nhức.
Rượu thuốc địa long: địa long ba con, phụ tử chế 12g, tam thất 6g, bạch chỉ 6g, chế xuyên ô 6g, tế tân 6g, mộc qua 10g, xuyên khung 10g, hồng hoa 10g, cẩu tích 10g, độc hoạt 10g, rết một con, mã tiền tử hai hạt. Các vị tán vụn, ngâm với 500ml rượu trắng, sau từ 7 – 10 ngày là được. Ngoài chữa trị các chứng nhức mỏi, trật gân… loại rượu này còn thích hợp xoa bóp làm giảm các chứng đau nhức ngày đông giá lạnh ở người già; phụ nữ sinh đẻ đau thắt lưng dùng xoa vào nơi đau và hai bàn chân cũng sẽ tránh khỏi tê thấp.
PGS.TS Nguyễn Trọng Thịnh - Giảng viên học viện y dược học cổ truyền Việt Nam

12 tháng 12 2013

Trị liệu pháp của Lãn Ông và một số danh y Trung Hoa


Sưu tầm tại Link: http://lehuutrac.edu.vn/nghien-cuu-ve-y-thuat-cua-hai-thuong-lan-ong.html
Nói đến trị liệu pháp (thérapeutique, principes thérapeutiques), tức là đề cập đến một vấn đề hết sức bao quát của y học. Vì thế, trong khuôn khổ một bài báo chúng ta không thể nào đi vào được hết các chi tiết. Chúng ta chỉ có thể phác họa ít nhiều nét đại cương, ít nhiều đường lối chính yếu của các danh y, ngõ hầu soi sáng cho chúng ta một phần nào trên con đường khảo sát Đông y. Chính vì thế mà trước hết xin quý vị lượng thứ cho sự sơ lược của bài này.

A. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA ÍT NHIỀU DANH Y TRUNG HOA
1. Trước hết, tưởng cũng nên nhắc lại rằng Đông y đã được xây nền đắp tảng trên bộ Nội Kinh.
Nội Kinh gồm hai quyển:
          - Tố Vấn gồm 81 chương.
          - Linh Khu gồm 81 chương, nói về châm cứu.
Tuy sách như là thuật lại lời đàm thoại giữa Hoàng Đế (2696-2598 tcn) với Kỳ Bá, nhưng có lẽ sách chỉ được viết ra khoảng 1000 năm trước công nguyên. Có người lại cho rằng bộ Nội Kinh được viết khoảng thế kỷ 4 tcn.[13]
Bộ Nội Kinh cho chúng ta các khái niệm về cơ thể học, bệnh lý học, và trị liệu pháp (thérapeutique).
Về phương diện bệnh lý học (pathogénie) chẳng hạn, Nội Kinh đã chia nguyên nhân sinh bệnh thành hai loại:
a. Ngoại cảm, do lục dâm: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa.
b. Nội thương, do sự thương tổn của khí huyết, tạng phủ, Âm Dương, gây ra bởi:
          - Thương thực.
          - Lao lực.
          - Sắc dục.
          - Thất tình (hỉ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng).[14]
Tuy nhiên Nội Kinh không đưa ra một phương thuốc nào nhất định và chỉ chuyên chú về châm cứu.
2. Đời nhà Chu, ta còn thấy hai triết thuyết về bệnh lý:
- Triết thuyết thứ nhất cho rằng bệnh tật sinh ra là do nhị khí Âm Dương trong người không được điều hòa.
- Triết thuyết thứ hai cho rằng bệnh tật sinh ra do ngũ hành trong người không được quân bình.
Tuy nhiên, trước đời nhà Hán (thế kỷ 2 tcn) thì phương pháp trị liệu nằm gọn trong các khoa:
- Châm (acupuncture).
- Cứu (moxa).
- Án ma (kinésithérapie, massage).
3. Mãi đến đời Hán, Trương Trọng Cảnh (đỗ tiến sĩ năm 163 đời Hán Linh Đế) mới mở một tân kỷ nguyên cho nền y học Trung Hoa.
Ông khảo sát các bệnh theo bệnh trạng (manifestations cliniques) tìm căn do bệnh tật, định phương pháp trị liệu bằng thuốc men. Ông viết hai quyển về y học là:
- Thương Hàn luận.
- Kim quỹ.
Trương Trọng Cảnh chủ trương rằng tà khí xâm nhập vào cơ thể con người do 6 Kinh từ ngoài vào trong (từ biểu vào ) theo thứ tự sau đây:
(1) Thái Dương kinh (Thủ thái dương, Tiểu tràng kinh, Túc thái dương, Bàng quang kinh)
(2) Dương Minh kinh (Thủ dương minh, Đại tràng kinh, Túc dương minh, Vị kinh)
(3) Thiếu Dương kinh (Thủ thiếu dương, Tam tiêu kinh, Túc thiếu dương, Đởm kinh)
(4) Thái Âm kinh (Thủ thái âm, Phế kinh, Túc thái âm, Tì kinh)
(5) Thiếu Âm kinh (Thủ thiếu âm, Tâm kinh, Túc thiếu âm, Thận kinh)
(6) Quyết Âm kinh (Thủ quyết âm, Tâm bào lạc kinh, Túc quyết âm, Can kinh)
Tổng quát mà nói:
* Bệnh ở kinh Dương, thuộc Dương, Biểu (ngoài), Nhiệt và Thực, cho nên có thể dùng những thuốc:
Công, như phát hãn (làm cho ra mồ hôi) hoặc bằng bài Ma hoàng thang[15] hoặc Quế chi thang[16] (bệnh ở Thái Dương kinh).
Hạ (cho đi xông) bằng bài Thừa khí thang[17] (bệnh ở Dương minh kinh).
- Hoặc Hòa hoãn bằng bài Tiển sài hồ thang[18] (bệnh ở Thiếu Dương kinh).
* Bệnh ở các kinh Âm thuộc Âm, Lý (bên trong), Hàn và Hư, vì thế phải dùng thuốc Ôn bổ như:
Tứ nghịch thang (tăng sức nóng)(bệnh ở Thiếu Âm kinh).[19]
Lý trung thang (bệnh ở Thái Âm kinh).[20]
Đương qui tứ nghịch thang (bệnh ở Quyết Âm kinh).[21]
Trương Trọng Cảnh được coi là một vị thánh y của Trung Quốc. Ông đã để lại 113 phương (ordonnances magistrales) và 397 y án (schémas de traitement).
Trần Tu Viên (khoảng 1803), trong thiên Cổ kim y luận, cho rằng Trương Trọng Cảnh đã biết mọi phương pháp chữa bệnh:
- Công (médication agressive)
- Bổ (médication tonique)
- Ôn (médication réchauffante)
- Lương (médication rafraîchissante)
Lại biết:
- Tiên công hậu bổ.
- Tiên bổ hậu công.
- Hàn nhiệt kiêm thi.
- Công bổ tịnh dụng, v.v.
Mọi lương y sau này chỉ khai thác được một khía cạnh nào đó của Trương Trọng Cảnh mà thôi.
4. Sau Trương Trọng Cảnh, bẵng đi một thời gian khá lâu, không ai đưa ra được một chủ xướng gì mới mẻ. Mãi đến đời nhà Kim, Nguyên (1206-1368) mới thấy có những danh y xuất hiện, đưa ra những chủ xướng mới mẻ. Đời Kim Nguyên có 4 danh y mà đời sau gọi là Kim Nguyên tứ đại gia [22] hay «Trương, Lưu, Lý, Chu, tứ tử». Đó là:
- Lưu Hoàn Tố, t71c Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
- Trương Tông Chính, tức Trương Tử Hòa (1155-1260)
- Lý Cảo, tức Lý Đông Viên (1179-1251)
- Chu Chấn Hanh, tức Chu Đơn Khê (1281-1358)[23]
a. Lưu Hoàn Tố, tự Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
Lưu Hoàn Tố chủ trương rằng các bệnh sinh ra trong người vì Nhiệt thịnh. Vì thế ông chủ trương dùng các vị thuốc hàn lương. Ngoài ra ông cũng dùng các loại thuốc:
- Thổ (vomitifs)
- Hạ (laxatifs ou purgatifs)
- Hãn (diaphorétiques)
Lưu Thủ Chân còn chủ trương rằng Âm Dương, Ngũ hành , Ngũ vận là nguyên nhân sinh ra bệnh tật.
Sau này Trương Giới Tân (1563-1640) đã đả kích Lưu Thủ Chân và cho rằng các môn thuốc hàn lương của ông chỉ có ích cho những người Trung Hoa ở phương Bắc, khoẻ mạnh, chứ không thích hợp những người Trung Hoa ở phương Nam, yếu hơn.[24]
b. Trương Tòng Chính, tự Tử Hòa (1155-1260).
Trương Tử Hòa chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do tà khí bên ngoài đột nhập vào cơ thể, nên cần phải trừ khử bằng các thuốc công, hạ (médication diaphorétique, émétissantes, purgatives, laxatives). Ông đặc biệt ưa dùng thuốc hạ (purgatifs).
c. Lý Cảo, tự Đông Chi, hiệu Đông Viên (1179-1251)
Lý Đông Viên cho rằng các bệnh sinh ra là do sự mất quân bình giữa Tì (-) và Vị (+); Vì thế, ông chuyên môn bổ Tì. Chính ông đã sáng chế bài Bổ trung ích khí thang.
d. Chu Đơn Khê, tự Ngạn Tu, hiệu Chấn Hanh (1281-1358)
Chu Đơn Khê chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do ăn uống thiếu chất bổ dưỡng. Ông lại cho rằng  trong người Âm thường bất túc, Dương thường hữu dư. Vì thế ông chuyên bổ Âm.
5. Đến đời Minh (1368-1644), ta lại thấy y học chia ra thành nhiều phái:
a. Công hạ phái. Phái này chủ trương như Trương Tử Hòa xưa rằng nên dùng các loại thuốc công, hạ.
b. Dưỡng Âm phái. Phái này theo chủ thuyết của Chu Đơn Khê, dùng các thuốc bổ âm.
c. Ôn bổ phái. Phái này do các lý thuyết gia sau đây lãnh đạo:
- Tiết Dĩ, tự Lập Trai (khoảng 1500-1560)
- Trương Giới Tân, tự Huệ Khanh, hiệu Cảnh Nhạc (1563-1640)
Ôn bổ phái chủ trương: Dương khí trong người chính là sinh khí, khó được và dễ mất, vì thế phải dùng thuốc ôn bổ để dưỡng Dương kh, chứ không được dùng những thuốc hàn, lương.
Tóm lại ta thấy các danh y Trung Hoa:
a. Người thì lưu tâm đến tà khí và chỉ chuyên dùng thuốc công, hạ để trừ khử.
b. Người thì lưu tâm đến cơ thể con người, và cho rằng các bệnh sinh ra là do Âm Dương nhị khí không điều hòa, hoặc Tì, Vị mất quân bình cho nên:
          - Hoặc chủ trương bổ Âm (bổ thận thủy, bổ huyết)
          - Hoặc chủ trương bổ Dương (bổ thận hỏa, bổ khí)
          - Hoặc chủ trương bổ Tì.
Vì thế đã có nhiều người tóm tắt trị liệu pháp của Trung Hoa  bằng bốn chữ Công, Lương, Ôn, Bổ.

B. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA LÃN ÔNG
Những nguyên tắc trị liệu của Lãn Ông hết sức sáng suốt và vững vàng. Trong quyển Y hải cầu nguyên nơi chương Hư Thực, ông viết đại khái như sau:
«Các bệnh nội thương càng ngày càng tăng, vì phong hóa suy đồi, tiết khí trở nên ô trọc hơn. Con người bị ảnh hưởng ngoại cảnh, càng ngày càng trở nên yếu đuối.
«Vì thế thời cổ người ta dùng các bài thuốc công phạt như Ma hoàng, Thừa khí.
«Thời trung cổ, người ta đổi phương lược, và dùng những thuốc vừa bổ vừa tả như Sâm tô thang, Nhân sâm bại độc tán.
«Sau này, Lý Đông Viên lại sáng chế ra các bài:
          - Bổ trung ích khí
          - Nhân sâm dưỡng vinh thang, chỉ gồm toàn vị bổ.
«Các cách trị liệu ấy, theo đà thời gian, đều có kết quả, chứng tỏ rằng cơ thể con người ngày một suy yếu hơn.
«Cho nên ngày nay những thuốc công, hạ ít được dùng, trái lại, các thuốc ôn bổ ngày một được dùng nhiều hơn.» [25]
Tuy nhiên các bệnh do ngoại thương, ngoại cảm. các bệnh thực chứng không phải là không có.
Như vậy phải có những tiêu chuẩn chính xác để phân biệt thực chứng do ngoại cảm với hư chứng do nội thương, để mà tùy nghi tả(trong trường hợp thực chứng) hay bổ (trong trường hợp hư chứng).
Lãn Ông cho ba tiêu chuẩn sau đây:
          + Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
          + Xem mạch mạnh yếu ra sao.
          + Xem bệnh diễn biến ra sao.
1. Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn như sau:
«Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» (Xem hình sắc để nhận biết người yếu hay người mạnh, để xác định là hư chứng hay thực chứng mà trị.)
Ông bình tiếp:
«Những người bẩm thụ phong hậu, tuổi trẻ, sức mạnh, khí huyết đầy đủ, xương thịt cân xứng, nếu lỡ có đau yếu thì nên lấy thực chứng mà trị.