Sưu tầm tại Link: http://lehuutrac.edu.vn/nghien-cuu-ve-y-thuat-cua-hai-thuong-lan-ong.html
Quan niệm về Thận của Lãn Ông có thể nói được là hết sức độc đáo.
Quan niệm này đã được trình bày cặn kẽ trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi và trình bày sơ lược trong quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ.
Cũng như Triệu Dưỡng Quì, tác giả bộ Y Quán, và Phùng Triệu Trương (Phùng thị, khoảng 1702), tác giả bộ Phùng Thị Cẩm Nang, Hải Thượng Lãn Ông không lấy Tâm làm trọng, mà lại lấy Thận làm trọng.[2] Lãn Ông chủ trương: «Trời đất bên ngoài có Thái Cực thì thân thể con người bên trong có thận.» [3]
Chữ Thận đây không thể hiểu theo nghĩa thông thường như là một bộ phận bài tiết nước tiểu, mà phải hiểu như là một hệ thống gồm:
- Thận: cơ quan bài tiết nước tiểu.
- Mệnh môn: Một hạch nội tiết (glande endocrine), nói theo từ ngữ y học hiện nay.
Hình trích từ quyển Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne của P.Huard và Maurice, tr.295, hình D
A. QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA ĐÔNG Y QUA CÁC THỜI ĐẠI
Để vấn đề được sáng tỏ, trước hết thiết tưởng nên trình bày sơ lược về quan niệm Thận theo Đông y qua các thời đại.
1. Trước tiên Biển Thước (Tần, Việt Nhân, khoảng 225 tcn), tác giả Nạn Kinh, cho rằng:
Thận có hai trái, tả và hữu, y như trời đất có Âm Dương.
Trái bên tả là Thận; trái bên phải là Mệnh môn.[4]
Sau này, Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 cn) và nhiều danh y Trung Hoa cũng đã theo thuyết này.
2. Trương Giới Tân tức Cảnh Nhạc (1563-1640) cho rằng:
- Mệnh môn ở chính giữa (Dương).
- Hai quả thận ở hai bên (Âm).
Tất cả hợp lại thành quẻ Khảm, cũng có một hào Dương và hai hào Âm.
Quẻ Khảm và quả thận
3. Lãn Ông, theo Triệu Dưỡng Quì và Phùng thị, dựa vào quẻ Khảm và vào Thái Cực đồ, đã cho rằng Thận trong người chính là Thái Cực. Theo Lãn Ông, Thận gồm có:
- Hai quả Thận ở hai bên tả hửu, tức là hai nửa vành lớn của Thái Cực.
- Mệnh môn ở chính giữa, chủ về nam tinh nữ huyết, tức là chủ về sinh dục.
- Vòng tròn trắng bên phải gọi là Chân hỏa hay Tướng hỏa.
- Vòng tròn đen bên trái gọi là Chân thủy.
Hai vòng đen trắng: Chân thủy, Chân hỏa tướng ứng với hai chấm nhỏ trắng đen mà ta thấy trong hình Thái Cực.
Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi, Lãn Ông đã vẽ hai hình để suy diễn Thái Cực ra Thận và các bộ phận.
Trong hệ thống Thận nói trên, đối với Lãn Ông, thì chỉ có Mệnh môn, Chân thủy, và Chân hỏa là quan trọng nhất.
Quyển Huyền Tẫn Phát Vi và quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của Lãn Ông nguyên bàn về Chân hỏa, Chân thủy, các chứng bệnh do chúng phát sinh cũng như cách trị liệu.
B. SINH LÝ HỌC VÀ BỆNH LÝ HỌC VỀ MỆNH MÔN
Như đã nói, Mệnh môn gồm có ba phần:
- Mệnh môn ở chính giữa, chủ trị Nam tính, Nữ huyết, tức là có ảnh hưởng nhiều đến cơ quan sinh dục.[5]
- Chân hỏa hay Tướng hỏa, thuộc Dương, chủ trì về sinh dục của con người.
- Chân thủy, thuộc Âm, điều khiển sự chuyển hóa về huyết dịch trong người.
Chân thủy, Chân hỏa trong con người cần phải hòa hợp, cộng tác với nhau thì cơ thể mới được khoẻ mạnh, nếu như một bên mà thiên thắng, thì cơ thể sẽ mất thế quân bình và sẽ sinh bệnh tật. Một thầy thuốc giỏi chính là người biết điều hòa Âm Dương để gây lại được thế quân bình đã mất.[6]
Vì Chân hỏa, Chân thủy quan hệ bậc nhất như vậy, nên chúng ta sẽ khảo sát chúng một cách tường tận hơn.
1. Chân hỏa (Tướng hỏa, Long hỏa): le Principe thermique [7]
Chân hỏa góp phần rất lớn vào công cuộc biến dưỡng nơi con người (métabolisme).
- Nó chủ trì mọi sinh hóa.
- Nó giúp cho tì vị hoạt động hẳn hoi, giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng.
- Nó giúp cho phổi được hoạt động hữu hiệu.
- Giúp khí huyết vận chuyển điều hòa.
- Nó giúp cho da thịt được săn khít.
- Nó giúp cho thần trí được minh mẫn.
a. Hỏa thịnh
Nếu hỏa thịnh (Dương thịnh), con người sẽ khoẻ mạnh, thịt xương rắn chắc.
b. Hỏa kháng (hỏa thái quá)
Nếu hỏa thái quá (kháng Dương), sự sinh hóa sẽ bị kích thích quá mức, và con người sẽ táo khát, cơ thể sẽ mất nước. Đó là trường hợp «thượng nhiệt, hạ táo» mà Lãn Ông đề cập đến trong Châu Ngọc Cách Ngôn (q.thượng, tr.3a).
c. Hỏa hư
Nếu hỏa hư, các hiện tượng sinh hóa sẽ bị đình trệ , con người sẽ trở nên yếu đuối, xanh xao, lông tóc sẽ dễ rụng, tì vị sẽ làm việc kém đi, sự tiêu hóa sẽ trở nên chậm chạp và con người sẽ bị sình hơi, trướng bụng, ăn uống khó tiêu, hay bị ẩu tả. Mặt khác, da cũng không được săn khít, khiến các khổng (sphincters) không được bền chặt, cho nên hay bị nôn mửa, đi xông, di tinh, ra mồ hôi trộm, v.v.
Hỏa hư cũng có thể làm cho con người trở nên bì quyện, hôn trầm.
Hỏa hư, Dương hư còn gây ra chứng «phù hỏa». Phù hỏa là hỏa bốc lên đầu, tan ra bì phu, trong khi đó thì chân tay lạnh, tạng phủ lạnh. Lãn Ông gọi thế là triệu chứng «thượng nhiệt, hạ hàn» (xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.1, tr.2a).
2. Chân thủy (le Principe aqueux)
Chân thủy chủ trì các sự vận chuyển tân dịch, huyết dịch trong người, làm cho cơ thể trở nên nhuần đượm, triển dương, lông tóc óng ả mầu mỡ.
a. Thủy quá thịnh
Thủy quá thịnh sẽ làm cho huyết dịch trong người trở nên úng trệ (stase, infiltration d’eau, rétention d’eau, aumentation du volume sanguin), phù thũng (oedème).
b. Thủy hư
Nếu thủy hư, âm hư, huyết dịch trong người sẽ bị giảm thiểu (hémoconcentration, réduction des liquides extra-cellulaires), chẳng những thế, các tân dịch (sécrétions) trong người cũng giảm đi.
3. Phương pháp trị liệu
Phương pháp trị liệu ở đây là phải điều hòa Âm Dương.
a. Bổ thủy
Nếu hỏa thịnh, thủy hư, sẽ bổ thủy. Bổ thủy để chế Dương quang (bổ thủy dĩ chế Dương quang).
b. Bổ hỏa
Nếu thủy thịnh, hỏa hư, sẽ bổ hỏa. Bổ hỏa để dẫn hỏa qui nguyên, bổ hỏa để tiêu trừ sự u ám, khuất lấp của Âm (dẫn hỏa dĩ phản nguyên; bổ hỏa dĩ tiêu Âm ế).
Bổ hỏa bằng bài bát vị ; bổ thủy bằng bài lục vị.
c. Bát vị
Bài bát vị do Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) sáng chế ra để chữa cho Hán Vũ Đế. Bài bát vị gồm 8 vị như sau:
* Bổ Âm (-) = 1. Đơn bì, 2. Phục linh, 3. Trạch tả.
* Bổ Dương (+) = 4. Quế, 5. Phụ.
* Bổ Âm (-) = 6. Thục địa, 7. Hoài sơn, 8. Sơn thù.[8]
d. Lục vị
Tiền Ất (thế kỷ XI, khoảng 1093) chuyên trị về nhi khoa đã bỏ hai vị Quế và Phụ trong bài bát vị nói trên mà chế thành bài lục vị.
Thoạt tiên Tiền Ất dùng bài lục vị để bồi bổ cho trẻ con mau lên cân, chóng lớn.
Sau này các danh y mới dùng lục vị để bổ thủy.
Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi ta thấy Lãn Ông chỉ dùng có hai bài bát vị và lục vị nói trên với những biến đổi gia giảm mà chữa được vô số kỳ bệnh, quái bệnh.
Tóm lại, đối với Lãn Ông:
- Thận là Thái Cực.
- Mệnh môn là Thái Cực.
- Thái Cực có Âm Dương.
- Mệnh môn có Chân thủy, Chân hỏa.
- Thái Cực, Âm Dương có quan trọng thế nào đối với vũ trụ thì Thận, Mệnh môn, Chân thủy, Chân hỏa cũng quan hệ đến sức khỏe con người như vậy.
Chữa bệnh mà chữa được tới căn bản, mà biết tài bồi căn bản thì lo chi bệnh không lành, người không khoẻ.
C. QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA LÃN ÔNG ĐỐI CHIẾU VỚI TÂY Y
Quan niệm của Lãn Ông về Thận có rất nhiều điểm tương tự với những khái niệm mới mẽ nhất về Tuyến thượng thận (glandes surrénales; capsules surrénales; surrénales; adrenal glands) của Tây y.
1. Sự phân chia Mệnh môn của Lãn Ông ăn khớp với sự phân chia vỏ thượng thận (cortex surrénal; adrenal cortex) của sinh lý học hiện đại.
* Lãn Ông chủ trương:
- Chân hỏa chủ trì về sinh khí, sinh lực trong con người.
- Chân thủy chủ trì huyết dịch trong người.
- Mệnh môn chủ trì về sinh dục.
* Khoa sinh lý học ngày nay chủ trương:
Vỏ thượng thận gồm 3 phần:
- Vùng chùm (Zone fasciculée du cortex surrénal) tiết ra những chất glucocorticoðdes (như Hydrocortisone hay composé F. cortisone) ảnh hưởng rất sâu xa đến sự biến dưỡng (métabolisme) của chất đạm, chất thịt (matière protidique), chất đường (matière glucidique) và chất mỡ (matière lipidique) trong cơ thể và như vậy ảnh hưởng đến sinh lực trong người.
- Vùng võng đới (Zone réticulée du cortex surrénal) tiết ra những chất Minéralocorticoides (như Aldostérone, Désoxycorticostérone) ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch của các chất điện giải (électrolytes) như Na (Sodium), K (Potassium), và Cl (Chlore); và như vậy, ảnh hưởng lớn đến số lượng tân dịch, huyết dịch trong người (métabolisme hydrique).
- Vùng đới cầu (Zone glomérulaire du cortex surrénal) tiết ra những kích thích tố sinh dục (như Hormone androgène, Hormone oestrogène, progestrérone, v.v.) nhưng với số lượng rát ít, sánh với dịch hoàn (testicules) và buồng trứng (ovaires).
2. Các bệnh trạng mà Lãn Ông mô tả về Mệnh môn cũng tương tự như những bệnh trạng mà Tây y hiện nay mô tả về vỏ thượng thận.
a. Lãn Ông cho rằng nếu hỏa hư thủy thịnh, huyết dịch trong người sẽ ứ đọng, con người có thể sinh đàm suyễn, hay phình nước.
Nếu ta cho bệnh nhân dùng nhiều chất Désoxycorticostérone (thủy thịnh), ta cũng thấy những triệu chứng như trên (oedème, alcalose avec respiration superficielle).
b. Lãn Ông cho rằng nếu Tướng hỏa mà hư, con người có thể trở nên hôn trầm bì quyện, ăn uống khó tiêu; dễ ẩu, dễ tả; hoặc bị di tinh (spermatorrhée), bất lực (impuissance); thịt nhão, hay mệt, hay đau bụng, đau người vì khí huyết chuyển vận không được điều hòa.
Nếu Chân thủy hư, con người sẽ ngày một trở nên khô kiệt (dessication progressive) hoặc mắc phải những chứng huyết khô (hémoconcentration), gầy rạc (maigreur, cachexie).
Trong bệnh Addison (bệnh lao tuyến thượng thận), các vùng thượng thận đều bị thương tổn, ta thấy:
+ Những triệu chứng Âm hư như:
- Sự biến loạn trong sự chuyển dịch của nước và máu (pertubations du métabolisme de l’eau, hémoconcentration).
- Gầy rạc (cachexie progressive).
+ Những triệu chứng Dương hư như:
- Mệt mỏi (asthénie).
- Ẩu (=nôn mửa), tả (vomissement et diarrhée).
- Người lạnh (hypothermie).
- Bất lực (impuissance), vô tự (=vô sinh, stérilité).
- Đau bụng.
- Ngất (lypothymie), hôn mê (coma), xỉu (collapsus).
c. Lãn Ông cho rằng có nhiều bệnh trạng sinh ra là do sự mất quân bình của thủy hỏa.
Gần đây giáo sư Seylie cũng chủ trương rằng trước sự tấn công đa diện (situations stressantes) của tà khí, thất tình, tai nạn, vi trùng, độc tố, nhiều khi con người phản ứng lại một cách bừa bãi, không thích nghi; chính vì thế mà cơ thể bị giao động thác loạn, chấn kích nên sinh bệnh.
Những bệnh chứng do sự giao động, chấn kích, thác loạn ấy, truy nguyên là do não thùy (hypophyse) bị kích thích nên đã phát tiết ra những kích thích tố như hormone corticotrope (ACTH), hormone somatotrope (STH). Những kích thích tố này sẽ kích thích những vùng của vỏ thượng thận (cortex surrénal) làm cho nó tấy lên (hypertrophie) và tiết ra những chất glucocorticoðdes, ảnh hưởng đến sự biến dưỡng (métabolisme) và minéralocorticoðdes ảnh hưởng đến tân dịch (sécrétion), huyết dịch (sang et liquides extracellulaires).
Như vậy các bệnh do sự phản ứng bừa bãi (syndrome de mal-adaptation, syndrome d’adaptation) sinh ra cũng là do sự mất quân bình giữa thủy (hormones minéralocorticodes) hỏa (hormones glucocorticodes).
d. Lãn Ông chủ trương rằng: Trẻ con thời «thuần Dương vô Âm» nên sự biến dưỡng rất dễ bị kích động, huyết dịch rất dễ bị suy vi, vì thế chỉ được dùng lục vị (cf. Châu Ngọc Cách Ngôn, tr.38).
Những người lớn thì hai khí Âm Dương quân bình hơn.
Còn những người già thì Âm Dương nhị khí đều suy.
Giáo sư Seylie cũng viết: «Trẻ con phản ứng mạnh, nên mau bệnh cũng như mau lành. Người lớn phản ứng ít hơn nên quen với các sự kích động của ngoại cảnh. Còn những người già thì yếu ớt đối với bệnh tật và các sự chấn kích của cuộc đời, vì thế nên dễ chết.» [9]
Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài coi Thái Cực trong thân người là Thận và Mệnh môn, vì Thái Cực phải là toàn thể con người, không phải là cái trứng nguyên thủy khi thụ tinh và bắt đầu phân hóa.
Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài cho rằng Mệnh môn đã có trước tất cả các tạng phủ, vì theo khoa phôi thai học (embryologie) ngày nay, thực tế không phải như vậy.[10]
Nhưng ta không thể không bái phục ngài, vì ngài đã đi từ Thái Cực, từ quẻ Khảm mà suy ra được Mệnh môn cùng với Chân thủy, Chân hỏa, và áp dụng Dịch lý để suy diễn ra các trạng thái Âm Dương suy thịnh trong con người.
Tây y đã dùng khoa giải phẫu, dùng kính hiển vi, dùng các phương pháp khoa học mà khám phá ra được vỏ thượng thận (cortex surrénal) và các công năng của nó.
Nhưng khi ta đối chiếu lại kết quả của hai đàng cũ mới, thì thấy đôi bên cũng không mấy khác nhau.
Đó chẳng phải là điều đáng làm cho chúng ta bỡ ngỡ hay sao?
Ngoài ra cũng phải ghi nhận rằng Lãn Ông và Phùng thị đã bàn về Mệnh môn, đã chữa về thủy hỏa từ thế kỷ XVIII. Ấy là ta chưa muốn nói rằng quan niệm về Mệnh môn đã manh nha từ thời Biển Thước (225 tcn), các phương dược để trị thủy hỏa đã có từ thời Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) và Tiến Ất (thế kỷ 11).
Ngược lại, tất cả những khám phá về «Tuyến thượng thận» chỉ có từ thế kỷ XIX đến nay.
Các bài bát vị, lục vị đã có từ thời Trọng Cảnh (thế kỷ II tcn) và Tiền Ất (thế kỷ XI cn), còn các chất ACTH, STH, Cortisone, Hydrocortisone, và Désoxycorticostérone mới được tinh chế khoảng chứng mấy chục năm nay.
Thiết tưởng những bài thuốc hay như bát vị, lục vị, những bài thuốc tỏ ra hiệu nghiệm từ nhiều thế kỷ qua rất đáng được chúng ta quan tâm mà khảo sát lại.
Giáo sư Huard cho rằng khi so sánh Mệnh môn của Lãn Ông với các Tuyến thượng thận của Tây y, tôi đã có hảo ý muốn bắc một nhịp cầu giữa Đông y và Tây y.[11] Tôi xét mình chưa xứng đáng với lời khen tặng đó.
|
THE «KIDNEYS» IN ORIENTAL MEDICINE by NGUYEN VAN THO
According to Oriental medicine, the «kidneys» are not only the two pea-shaped organs of modern anatomy. With this word, one must conceive a complicated system, including the genito-urinary tract and the endocrine glands, the adrenal cortex in particular.
The author, analysing two volumes of Lan Ong’s encyclopedia, suggests that the right kidney, known in traditional medicine as the «Gate of Life» with its three elements (thermal, aqueous, and sexual) might be likened to the three historical zones of the cortex, namely the zona glomerulosa, the zona fasciculata, and the zona reticularis.
(Phuong Dong, November 1972, No 17)
|