28 tháng 1 2014

Lời khuyên của Hải Thượng Lãn Ông và ngày Tết

Giữ gìn sức khỏe ngày Tết theo lời khuyên của Hải Thượng Lãn Ông

Nói về sức khỏe của con người, Hải Thượng Lãn Ông xác định: tinh thần và thể chất được luôn luôn khang kiện thì sẽ tận hưởng tuổi thọ ngoài 100. Từ thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông đã đúc kết những kiến thức cơ bản về sức khoẻ cho người dân thường:
1. Về tâm sinh lý con người cũng cần phải điều độ, thư thái vì:
Tức giận quá sẽ hạn can
Vui mừng quá hại tâm
Buồn lo quá hại phế
Kinh sợ quá hại thận
Suy nghĩ quá hại tỳ.

2. Về ăn uống:
Vệ sinh ăn uống trước tiên
Khuyên ăn thanh đạm, khuyên kiêng đậm nồng
Thức ăn dùng phải có chừng.
Ăn nhiều tán khí, biết phòng mới hay
Các vị mặn, nồng, đắng, cay
Ăn nhiều sinh bệnh chẳng sai đâu mà
Đắng nhiều hại phế, khô da
Mặn nhiều tâm lạnh, máu đà phải ngưng
Quá chua can động rút gân
Qua cay chai thịt, môi quăn hại tỳ
Ngọt nhiều cũng chẳng ích gì
Tỳ chen thận yếu, xương tê, tóc cằn”.

“Vừa chừng gia vị thì nêm
Hễ người táo nhiệt chớ quên kiêng dùng”

“Muốn cho ngũ tạng được yên
Bớt ăn mấy miếng nhịn thèm hơn đau
Ăn no thì chớ gội đầu”

“Luận về trầu thuốc rượu chè
Từng dùng thiết đãi bạn bè vui thay”.

Ăn uống điều độ, đúng cách sẽ khiến cho bạn có tuổi thọ cao và tinh thần làm việc tốt

Ông đả phá hút thuốc vì:
“Hút vào uất hoả hôi mồm
Họng khô, phổi ráo, tích đờm, sinh ho
Khí hao huyết tụt chẳng ngờ
Ung thư, kết hạch, nguy cơ có ngày.
Hại nhiều lợi ít rõ thay”.

Còn uống rượu thì sao?
Khi uống rượu:
“Rượu nồng tính nóng hơi cay
Dở chua, dở ngọt vị hay lạ thường.
Uống vào tai mặt đỏ bừng
Tâm thần rung động, bàng hoàng nói năng
Cường dương, trúng đởm chi bằng

Nhưng  uống rượu nhiều khi có hại:
“Rượu say mê muội tinh thần
Khiến người làm bậy, làm càn hại thay...”

“Say nhiều nôn mửa, bỗng dưng mê trầm
Hơi men nung nấu can tâm
Đau đầu thở huyết, họng sưng, mắt mờ
Biến sinh cước khí, ung thư
Phế suy, tâm hoảng, gan khô, da vàng
Lâu ngày thấp nhiệt huân chung
Biết nên vị thống, trường phong gân mềm”.

Tóm lại:

“Rượu làm khí lực hao mòn”. Hải Thượng Lãn Ông khuyên dùng rượu để sao tẩm thuốc, ngâm rượu thuốc,... Uống ít thì có thể tốt cho sức khoẻ nhưng uống nhiều sẽ rất có hại.

Với tấm lòng nhân ái, Hải Thượng Lãn Ông luôn “Mong đời người không có bệnh”. Phòng bệnh có rất nhiều biện pháp, nhưng cái gần gũi là ăn uống và sinh hoạt thì lại ít được quan tâm.

Ngày Tết đã cận kề, vui là điều quan trọng nhưng chúng ta hãy chú ý đến sức khoẻ ngay từ việc ăn uống. Một cơ thể khoẻ mạnh là cơ thể không có bệnh tật.


17 tháng 1 2014

Luận âm dương và ý nghĩa của Thái cực đồ trong y học



Bài mở đầu ( ngày 17/01/2014 )
 Mỗi lần đọc sách về Đông y của các bậc đại danh y thời xưa tôi lại nhận thấy thấp thoáng hoặc trực diện các vấn đề về âm dương, thời gian trôi đi và quá trình tích lũy kinh nghiệm sống cũng như những phân tích và suy diễn cứ dần dần bồi đắp, tích tụ ... Và rồi rất nhiều vấn đề gợi mở khi đi sâu vào nghiên cứu những ẩn ý trong hình ảnh thái cực đồ. Thực ra thì hướng đi là phía trước, nhưng luận giải và viết ra thì vừa suy nghĩ vừa chép lại suy nghĩ của mình. Có những lúc ý tưởng chợt đến, thật bất ngờ và chuẩn xác ngay khi viết lại và có những lúc ý tưởng đến nhưng rất khó triển khai được cách diễn giải. 
Chính việc mò mẫm từng bước theo ý tưởng dẫn dắt và kinh nghiệm sống còn nhiều mặt hạn chế nên còn có nhiều vấn đề, khía cạnh được diễn giải theo suy diễn chủ quan khiến bản thân chưa thấy thấu tường, đạt lý. Mặc dù vậy, tôi vẫn đăng các bài viết của mình lên blog này thứ nhất là để mọi người tham khảo, thứ hai là xin lĩnh hội ý kiến, cao kiến của tất cả mọi người để chúng ta cùng nhau tìm ra những chân lý của các vấn đề một cách khoa học, đúng đắn nhất và cũng mong giúp ích được phần nào đó trong công việc của mỗi người !
Âm và dương là hai mặt của bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trên thế gian này, đó là điều mà ai cũng biết. Từ xa xưa, loài người của chúng ta đã cảm nhận  thấy sự hiện diện của âm và dương rồi từ đó dùng biểu tượng, tượng hình để mô phỏng, mô tả cũng như diễn tả về âm dương. Chính cái trí tuệ mà con người được giới tự nhiên ban cho thật sâu sắc, nhưng phương pháp và cách thức thể hiện thật thô sơ của thủa sơ khai đã tạo lên một Thái cực đầy bí ẩn, mênh mông và mê hoặc ( đây là sự thật hay là điều ngược lại khi nói cách thức thể hiện hình tượng Thái cực đồ là thô sơ ? trong khi từng đường nét phân chia, từng mảng màu từng hình dạng hình học lại logic một cách huyền bí, hài hoà chứa đựng bao ẩn ý trong các lĩnh vực mà bao đời sau chưa thể lý giải hết được ? )...
( còn tiếp )

16 tháng 1 2014

Bài ca thuốc giải biểu bằng chữ Hán



Nhiệt hà hoa tử tang nhĩ căn
Hàn ma sinh quế kinh bạch tía
Thấp phòng khương độc khoan thiên uy
Tang tang thổ mộc thương thương nũ
Lá lốt hy thiêm ngũ gia bì !


Các vị thuốc giải biểu trong bài ca này gồm:
Bạc hà, cúc hoa, mạn kinh tử, tang diệp, nhĩ hương thảo ( lá cây cối xay ), cát căn.
Ma hoàng, sinh khương, quế chi, kinh giới, bạch chỉ, tía tô.
Phòng phong, khương hoạt, độc hoạt, khoan cân đằng, thiên niên kiện, uy linh tiên, tang chi, tang ký sinh, thổ phục linh, mộc qua, thương truật, thương nhĩ tử, trinh nữ thảo ( hàm tu thảo ), lá lốt, hy thiêm, ngũ gia bì.
Ngoài gia còn một số vị như: sài hồ, thăng ma ( phát tán phong nhiệt ), tế tân ( phát tán phong hàn ), tần giao ( phát tán phong thấp )...

13 tháng 1 2014

Bệnh đến từ đâu ? Điểm khởi phát bệnh !


- Nếu khởi bệnh bắt đầu từ các tác nhân bên ngoài xâm nhập vào bên trong ( ngoại cảm tà khí ) thì tổn thương đầu tiên là phế, bắt đầu xuất hiện các triệu chứng như sốt, ho, sởn gai ốc ( nỗi da gà ), gấy rét,  ... Nếu không chữa trị kịp thời sẽ dần dần xâm nhập các tạng phủ khác, dẫn đến bệnh nội thương, bệnh tình trở nên nặng và khó chữa trị.
- Nếu khởi bệnh bắt đầu do ăn uống không điều độ, lao lực quá mức ... Thường làm tổn thương tỳ vị, xuất hiện ăn kém, bụng đau chướng đầy, người mệt mỏi, đại tiện nhão nát ...
- Nếu khởi bệnh bắt đầu do rối loạn tình chí, căng thẳng tinh thần, hay lo nghĩ kéo dài .. Thường dẫn đến tổn thương tâm và can, xuất hiện các triệu chứng tinh thần mệt mỏi, căng thẳng, mất ngủ, hay hồi hộp đánh trống ngực, mắt thâm quầng ...
- Nếu khởi bệnh trên cơ thể đang mắc bệnh mạn tính dẫn đến suy nhược, ở người kết hôn sớm, tình dục quá độ... Thì đa phần ảnh hưởng đến thận. Trên lâm sàng xuất hiện các triệu chứng: lưng đau, gối mỏi, hình thể gầy mòn, tinh thần mệt mỏi, nam giới có thể di tinh, nữ giới có thể rối loạn kinh nguyệt ...

06 tháng 1 2014

Một số bài thuốc ngâm rượu dùng để xoa bóp

Dùng một số vị thuốc đông y ngâm trong bình hoặc lọ kín với rượu sẽ cho ra những dược tửu xoa bóp hữu hiệu nhằm dự phòng và điều trị các chứng đau mỏi gân xương, cơ khớp… hay gặp trong những ngày đông lạnh giá.
Rượu thuốc (dược tửu) là một chế phẩm hết sức độc đáo của y học cổ truyền. Việc dùng rượu thuốc để trị bệnh và bồi bổ đã có từ lâu. Có loại rượu thuốc sử dụng để uống và có loại xoa bóp bên ngoài. Mỗi loại đều có những nguyên tắc bào chế và cách sử dụng riêng nên phải hết sức chú ý khi tự bào chế. Có thể mua rượu thuốc xoa bóp đã bào chế sẵn bán ở các nhà thuốc đông y hoặc các phòng khám y học cổ truyền. Cách này tuy tiện lợi nhưng sẽ khó cho người bệnh kiểm soát được chất lượng an toàn của quá trình ngâm rượu. Vì vậy trong dân gian nhiều gia đình có thói quen sử dụng thuốc đông y vẫn hay thiên về cách tự bào chế hơn. Chỉ những bài thuốc rượu nào quá phức tạp, vị thuốc khó tìm, đòi hỏi quy trình nghiêm ngặt họ mới tìm mua thành phẩm.
Khi tự bào chế rượu thuốc, phải biết rõ tên vị thuốc và quy cách, đề phòng loại cây cùng tên mà khác thuốc hoặc cùng thuốc mà khác tên. Đối với một số phương thuốc lưu truyền trong dân gian, nếu muốn bào chế phải hỏi kỹ thầy thuốc để tránh sử dụng nhầm gây hậu quả nguy hiểm. Trên tất cả, phải biết chọn dùng phối hợp những vị thuốc nào và phương cách chế biến ra sao thì mới mong có được những loại rượu thuốc xoa bóp vừa đơn giản lại vừa có hiệu quả như mong muốn:
Rượu thuốc ngô công: Dùng con rết nhà (ngô công) hay rết rừng loại lớn, nhiều chân, dài từ 7 – 13cm, đầu vàng, lưng đen, chân bụng đỏ vàng. Nếu rết to chọn một hoặc hai con; rết nhỏ lấy từ ba đến bốn con. Cồn 900 một lượng khoảng 150ml. Bắt được rết, lấy nước nóng già 70 – 80oC đổ vào. Sau đó đem rửa nhiều lần rồi cho vào ngâm với cồn. Thời gian ngâm từ 30 – 90 ngày, càng ngâm lâu càng tốt. Lọc, đóng chai. Rượu rết có tác dụng xoa bóp các trường hợp đau nhức, phong thấp, té ngã tụ máu. Rượu còn có thể xoa vào chỗ mụn nhọt mới mọc cho tan. Tẩm bông xoa lên chỗ rắn cắn để giải độc.
Rượu thuốc thảo dược: huyết giác 40g, đại hồi 12g, quế chi 12g, địa liền 20g, thiên niên kiện 20g, long não (tán bột) 15g, cồn 700 một lít. Tất cả các vị thuốc tán thành bột ngâm trong cồn khoảng một tuần. Mỗi ngày khuấy một lần, gạn lấy kiệt nước, cho thêm bột long não vào khuấy cho tan hết bột. Đóng chai. Loại rượu này giúp chữa sưng tấy, tụ máu, bầm tím, bong gân, nhức xương, đau khớp.
Tuyệt đối không được uống
Các loại rượu thuốc xoa bóp chỉ được dùng ngoài da, tuyệt đối không được uống bởi đa số các vị thuốc dùng làm rượu thuốc xoa bóp đều có tính độc. Nên dán nhãn lưu ý tác hại ngoài chai. Ngoài ra, khi sử dụng rượu thuốc để xoa bóp không nên bôi vào các vết thương đã chảy hay rỉ máu. Cách sử dụng tốt nhất là tẩm rượu vào bông hay miếng gạc, xoa lên chỗ đau sưng rồi xoa bóp.
Rượu huyết giác: Huyết giác 20g, quế chi 20g, thiên niên kiện 20g, đại hồi 20g, địa liền 20g, gỗ vang 40g. Các vị thuốc tán nhỏ, cho vào chai cùng với 500ml rượu trắng, ngâm khoảng một tuần, lấy ra vắt kiệt, bỏ bã. Rượu có công dụng tốt cho những trường hợp bị thương do đánh đập, té ngã, đau tức, bầm máu… Trong dân gian còn dùng chữa đau mỗi khi lao động nặng hoặc đi đường xa sưng chân.
Rượu thuốc long não: Long não 100g, cồn 900 khoảng một lít. Hòa tan long não vào cồn. Sau đó lọc, đóng vào chai. Loại rượu này có công dụng xoa bóp giúp đánh tan các chỗ tụ máu, nhức mỏi mình mẩy.
Rượu thuốc hồng hoa: Hồng hoa (cây rum) 12g, đào nhân 20g, xuyên khung 50g, đương quy 50g, thảo ô 20g, hạt tiêu 50g. Các vị thuốc tán vụn, ngâm với một lít rượu trắng, sau ba ngày dùng được. Rượu hữu hiệu với các chứng đau nhức, tê bại, máu ứ bầm tím, nhức mỏi.
Rượu thuốc ngải cứu: Ngải cứu 6g, đương quy 12g, độc hoạt 12g, khương hoạt 12g, thiên niên kiện 10g, hồng hoa 8g, tô mộc 12g, nhục quế 8g, tần giao 12g, huyết giác 12g, mộc qua 10g. Các vị tán vụn, ngâm với 1.000ml rượu trắng, sau bảy ngày là có thể dùng được. Rượu có công dụng tốt để xoa ngoài khớp bị tê thấp hoặc những nơi đau nhức.
Rượu thuốc địa long: địa long ba con, phụ tử chế 12g, tam thất 6g, bạch chỉ 6g, chế xuyên ô 6g, tế tân 6g, mộc qua 10g, xuyên khung 10g, hồng hoa 10g, cẩu tích 10g, độc hoạt 10g, rết một con, mã tiền tử hai hạt. Các vị tán vụn, ngâm với 500ml rượu trắng, sau từ 7 – 10 ngày là được. Ngoài chữa trị các chứng nhức mỏi, trật gân… loại rượu này còn thích hợp xoa bóp làm giảm các chứng đau nhức ngày đông giá lạnh ở người già; phụ nữ sinh đẻ đau thắt lưng dùng xoa vào nơi đau và hai bàn chân cũng sẽ tránh khỏi tê thấp.
PGS.TS Nguyễn Trọng Thịnh - Giảng viên học viện y dược học cổ truyền Việt Nam

12 tháng 12 2013

Trị liệu pháp của Lãn Ông và một số danh y Trung Hoa


Sưu tầm tại Link: http://lehuutrac.edu.vn/nghien-cuu-ve-y-thuat-cua-hai-thuong-lan-ong.html
Nói đến trị liệu pháp (thérapeutique, principes thérapeutiques), tức là đề cập đến một vấn đề hết sức bao quát của y học. Vì thế, trong khuôn khổ một bài báo chúng ta không thể nào đi vào được hết các chi tiết. Chúng ta chỉ có thể phác họa ít nhiều nét đại cương, ít nhiều đường lối chính yếu của các danh y, ngõ hầu soi sáng cho chúng ta một phần nào trên con đường khảo sát Đông y. Chính vì thế mà trước hết xin quý vị lượng thứ cho sự sơ lược của bài này.

A. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA ÍT NHIỀU DANH Y TRUNG HOA
1. Trước hết, tưởng cũng nên nhắc lại rằng Đông y đã được xây nền đắp tảng trên bộ Nội Kinh.
Nội Kinh gồm hai quyển:
          - Tố Vấn gồm 81 chương.
          - Linh Khu gồm 81 chương, nói về châm cứu.
Tuy sách như là thuật lại lời đàm thoại giữa Hoàng Đế (2696-2598 tcn) với Kỳ Bá, nhưng có lẽ sách chỉ được viết ra khoảng 1000 năm trước công nguyên. Có người lại cho rằng bộ Nội Kinh được viết khoảng thế kỷ 4 tcn.[13]
Bộ Nội Kinh cho chúng ta các khái niệm về cơ thể học, bệnh lý học, và trị liệu pháp (thérapeutique).
Về phương diện bệnh lý học (pathogénie) chẳng hạn, Nội Kinh đã chia nguyên nhân sinh bệnh thành hai loại:
a. Ngoại cảm, do lục dâm: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa.
b. Nội thương, do sự thương tổn của khí huyết, tạng phủ, Âm Dương, gây ra bởi:
          - Thương thực.
          - Lao lực.
          - Sắc dục.
          - Thất tình (hỉ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng).[14]
Tuy nhiên Nội Kinh không đưa ra một phương thuốc nào nhất định và chỉ chuyên chú về châm cứu.
2. Đời nhà Chu, ta còn thấy hai triết thuyết về bệnh lý:
- Triết thuyết thứ nhất cho rằng bệnh tật sinh ra là do nhị khí Âm Dương trong người không được điều hòa.
- Triết thuyết thứ hai cho rằng bệnh tật sinh ra do ngũ hành trong người không được quân bình.
Tuy nhiên, trước đời nhà Hán (thế kỷ 2 tcn) thì phương pháp trị liệu nằm gọn trong các khoa:
- Châm (acupuncture).
- Cứu (moxa).
- Án ma (kinésithérapie, massage).
3. Mãi đến đời Hán, Trương Trọng Cảnh (đỗ tiến sĩ năm 163 đời Hán Linh Đế) mới mở một tân kỷ nguyên cho nền y học Trung Hoa.
Ông khảo sát các bệnh theo bệnh trạng (manifestations cliniques) tìm căn do bệnh tật, định phương pháp trị liệu bằng thuốc men. Ông viết hai quyển về y học là:
- Thương Hàn luận.
- Kim quỹ.
Trương Trọng Cảnh chủ trương rằng tà khí xâm nhập vào cơ thể con người do 6 Kinh từ ngoài vào trong (từ biểu vào ) theo thứ tự sau đây:
(1) Thái Dương kinh (Thủ thái dương, Tiểu tràng kinh, Túc thái dương, Bàng quang kinh)
(2) Dương Minh kinh (Thủ dương minh, Đại tràng kinh, Túc dương minh, Vị kinh)
(3) Thiếu Dương kinh (Thủ thiếu dương, Tam tiêu kinh, Túc thiếu dương, Đởm kinh)
(4) Thái Âm kinh (Thủ thái âm, Phế kinh, Túc thái âm, Tì kinh)
(5) Thiếu Âm kinh (Thủ thiếu âm, Tâm kinh, Túc thiếu âm, Thận kinh)
(6) Quyết Âm kinh (Thủ quyết âm, Tâm bào lạc kinh, Túc quyết âm, Can kinh)
Tổng quát mà nói:
* Bệnh ở kinh Dương, thuộc Dương, Biểu (ngoài), Nhiệt và Thực, cho nên có thể dùng những thuốc:
Công, như phát hãn (làm cho ra mồ hôi) hoặc bằng bài Ma hoàng thang[15] hoặc Quế chi thang[16] (bệnh ở Thái Dương kinh).
Hạ (cho đi xông) bằng bài Thừa khí thang[17] (bệnh ở Dương minh kinh).
- Hoặc Hòa hoãn bằng bài Tiển sài hồ thang[18] (bệnh ở Thiếu Dương kinh).
* Bệnh ở các kinh Âm thuộc Âm, Lý (bên trong), Hàn và Hư, vì thế phải dùng thuốc Ôn bổ như:
Tứ nghịch thang (tăng sức nóng)(bệnh ở Thiếu Âm kinh).[19]
Lý trung thang (bệnh ở Thái Âm kinh).[20]
Đương qui tứ nghịch thang (bệnh ở Quyết Âm kinh).[21]
Trương Trọng Cảnh được coi là một vị thánh y của Trung Quốc. Ông đã để lại 113 phương (ordonnances magistrales) và 397 y án (schémas de traitement).
Trần Tu Viên (khoảng 1803), trong thiên Cổ kim y luận, cho rằng Trương Trọng Cảnh đã biết mọi phương pháp chữa bệnh:
- Công (médication agressive)
- Bổ (médication tonique)
- Ôn (médication réchauffante)
- Lương (médication rafraîchissante)
Lại biết:
- Tiên công hậu bổ.
- Tiên bổ hậu công.
- Hàn nhiệt kiêm thi.
- Công bổ tịnh dụng, v.v.
Mọi lương y sau này chỉ khai thác được một khía cạnh nào đó của Trương Trọng Cảnh mà thôi.
4. Sau Trương Trọng Cảnh, bẵng đi một thời gian khá lâu, không ai đưa ra được một chủ xướng gì mới mẻ. Mãi đến đời nhà Kim, Nguyên (1206-1368) mới thấy có những danh y xuất hiện, đưa ra những chủ xướng mới mẻ. Đời Kim Nguyên có 4 danh y mà đời sau gọi là Kim Nguyên tứ đại gia [22] hay «Trương, Lưu, Lý, Chu, tứ tử». Đó là:
- Lưu Hoàn Tố, t71c Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
- Trương Tông Chính, tức Trương Tử Hòa (1155-1260)
- Lý Cảo, tức Lý Đông Viên (1179-1251)
- Chu Chấn Hanh, tức Chu Đơn Khê (1281-1358)[23]
a. Lưu Hoàn Tố, tự Thủ Chân (giữa khoảng 1115-1260).
Lưu Hoàn Tố chủ trương rằng các bệnh sinh ra trong người vì Nhiệt thịnh. Vì thế ông chủ trương dùng các vị thuốc hàn lương. Ngoài ra ông cũng dùng các loại thuốc:
- Thổ (vomitifs)
- Hạ (laxatifs ou purgatifs)
- Hãn (diaphorétiques)
Lưu Thủ Chân còn chủ trương rằng Âm Dương, Ngũ hành , Ngũ vận là nguyên nhân sinh ra bệnh tật.
Sau này Trương Giới Tân (1563-1640) đã đả kích Lưu Thủ Chân và cho rằng các môn thuốc hàn lương của ông chỉ có ích cho những người Trung Hoa ở phương Bắc, khoẻ mạnh, chứ không thích hợp những người Trung Hoa ở phương Nam, yếu hơn.[24]
b. Trương Tòng Chính, tự Tử Hòa (1155-1260).
Trương Tử Hòa chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do tà khí bên ngoài đột nhập vào cơ thể, nên cần phải trừ khử bằng các thuốc công, hạ (médication diaphorétique, émétissantes, purgatives, laxatives). Ông đặc biệt ưa dùng thuốc hạ (purgatifs).
c. Lý Cảo, tự Đông Chi, hiệu Đông Viên (1179-1251)
Lý Đông Viên cho rằng các bệnh sinh ra là do sự mất quân bình giữa Tì (-) và Vị (+); Vì thế, ông chuyên môn bổ Tì. Chính ông đã sáng chế bài Bổ trung ích khí thang.
d. Chu Đơn Khê, tự Ngạn Tu, hiệu Chấn Hanh (1281-1358)
Chu Đơn Khê chủ trương rằng các bệnh sinh ra là do ăn uống thiếu chất bổ dưỡng. Ông lại cho rằng  trong người Âm thường bất túc, Dương thường hữu dư. Vì thế ông chuyên bổ Âm.
5. Đến đời Minh (1368-1644), ta lại thấy y học chia ra thành nhiều phái:
a. Công hạ phái. Phái này chủ trương như Trương Tử Hòa xưa rằng nên dùng các loại thuốc công, hạ.
b. Dưỡng Âm phái. Phái này theo chủ thuyết của Chu Đơn Khê, dùng các thuốc bổ âm.
c. Ôn bổ phái. Phái này do các lý thuyết gia sau đây lãnh đạo:
- Tiết Dĩ, tự Lập Trai (khoảng 1500-1560)
- Trương Giới Tân, tự Huệ Khanh, hiệu Cảnh Nhạc (1563-1640)
Ôn bổ phái chủ trương: Dương khí trong người chính là sinh khí, khó được và dễ mất, vì thế phải dùng thuốc ôn bổ để dưỡng Dương kh, chứ không được dùng những thuốc hàn, lương.
Tóm lại ta thấy các danh y Trung Hoa:
a. Người thì lưu tâm đến tà khí và chỉ chuyên dùng thuốc công, hạ để trừ khử.
b. Người thì lưu tâm đến cơ thể con người, và cho rằng các bệnh sinh ra là do Âm Dương nhị khí không điều hòa, hoặc Tì, Vị mất quân bình cho nên:
          - Hoặc chủ trương bổ Âm (bổ thận thủy, bổ huyết)
          - Hoặc chủ trương bổ Dương (bổ thận hỏa, bổ khí)
          - Hoặc chủ trương bổ Tì.
Vì thế đã có nhiều người tóm tắt trị liệu pháp của Trung Hoa  bằng bốn chữ Công, Lương, Ôn, Bổ.

B. TRỊ LIỆU PHÁP CỦA LÃN ÔNG
Những nguyên tắc trị liệu của Lãn Ông hết sức sáng suốt và vững vàng. Trong quyển Y hải cầu nguyên nơi chương Hư Thực, ông viết đại khái như sau:
«Các bệnh nội thương càng ngày càng tăng, vì phong hóa suy đồi, tiết khí trở nên ô trọc hơn. Con người bị ảnh hưởng ngoại cảnh, càng ngày càng trở nên yếu đuối.
«Vì thế thời cổ người ta dùng các bài thuốc công phạt như Ma hoàng, Thừa khí.
«Thời trung cổ, người ta đổi phương lược, và dùng những thuốc vừa bổ vừa tả như Sâm tô thang, Nhân sâm bại độc tán.
«Sau này, Lý Đông Viên lại sáng chế ra các bài:
          - Bổ trung ích khí
          - Nhân sâm dưỡng vinh thang, chỉ gồm toàn vị bổ.
«Các cách trị liệu ấy, theo đà thời gian, đều có kết quả, chứng tỏ rằng cơ thể con người ngày một suy yếu hơn.
«Cho nên ngày nay những thuốc công, hạ ít được dùng, trái lại, các thuốc ôn bổ ngày một được dùng nhiều hơn.» [25]
Tuy nhiên các bệnh do ngoại thương, ngoại cảm. các bệnh thực chứng không phải là không có.
Như vậy phải có những tiêu chuẩn chính xác để phân biệt thực chứng do ngoại cảm với hư chứng do nội thương, để mà tùy nghi tả(trong trường hợp thực chứng) hay bổ (trong trường hợp hư chứng).
Lãn Ông cho ba tiêu chuẩn sau đây:
          + Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
          + Xem mạch mạnh yếu ra sao.
          + Xem bệnh diễn biến ra sao.
1. Xem tạng người bệnh nhân mạnh yếu ra sao.
Lãn Ông viết trong Châu Ngọc Cách Ngôn như sau:
«Quan hình dĩ bẩm nhược bẩm cường, xác kỳ vi hư vi thực nhi trị.» (Xem hình sắc để nhận biết người yếu hay người mạnh, để xác định là hư chứng hay thực chứng mà trị.)
Ông bình tiếp:
«Những người bẩm thụ phong hậu, tuổi trẻ, sức mạnh, khí huyết đầy đủ, xương thịt cân xứng, nếu lỡ có đau yếu thì nên lấy thực chứng mà trị.

Quan niệm về thận của Hải Thượng Lãn Ông





Sưu tầm tại Link: http://lehuutrac.edu.vn/nghien-cuu-ve-y-thuat-cua-hai-thuong-lan-ong.html
Quan niệm về Thận của Lãn Ông có thể nói được là hết sức độc đáo.
Quan niệm này đã được trình bày cặn kẽ trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi và trình bày sơ lược trong quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của cụ.
Cũng như Triệu Dưỡng Quì, tác giả bộ Y Quán, và Phùng Triệu Trương (Phùng thị, khoảng 1702), tác giả bộ Phùng Thị Cẩm Nang, Hải Thượng Lãn Ông không lấy Tâm làm trọng, mà lại lấy Thận làm trọng.[2] Lãn Ông chủ trương: «Trời đất bên ngoài có Thái Cực thì thân thể con người bên trong có thận.» [3]
Chữ Thận đây không thể hiểu theo nghĩa thông thường như là một bộ phận bài tiết nước tiểu, mà phải hiểu như là một hệ thống gồm:
Thận: cơ quan bài tiết nước tiểu.
- Mệnh môn: Một hạch nội tiết (glande endocrine), nói theo từ ngữ y học hiện nay.
Hình trích từ quyển Lãn Ông et la Médicine Sino-vietnamienne của P.Huard và Maurice, tr.295, hình D
A. QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA ĐÔNG Y QUA CÁC THỜI ĐẠI
Để vấn đề được sáng tỏ, trước hết thiết tưởng nên trình bày sơ lược về quan niệm Thận theo Đông y qua các thời đại.
1. Trước tiên Biển Thước (Tần, Việt Nhân, khoảng 225 tcn), tác giả Nạn Kinh, cho rằng:
Thận có hai trái, tả và hữu, y như trời đất có Âm Dương.
Trái bên tả là Thận; trái bên phải là Mệnh môn.[4]
Sau này, Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 cn) và nhiều danh y Trung Hoa cũng đã theo thuyết này.
2. Trương Giới Tân tức Cảnh Nhạc (1563-1640) cho rằng:
- Mệnh môn ở chính giữa (Dương).
- Hai quả thận ở hai bên (Âm).
Tất cả hợp lại thành quẻ Khảm, cũng có một hào Dương và hai hào Âm.
Quẻ Khảm và quả thận
3. Lãn Ông, theo Triệu Dưỡng Quì và Phùng thị, dựa vào quẻ Khảm và vào Thái Cực đồ, đã cho rằng Thận trong người chính là Thái Cực. Theo Lãn Ông, Thận gồm có:
- Hai quả Thận ở hai bên tả hửu, tức là hai nửa vành lớn của Thái Cực.
- Mệnh môn ở chính giữa, chủ về nam tinh nữ huyết, tức là chủ về sinh dục.
- Vòng tròn trắng bên phải gọi là Chân hỏa hay Tướng hỏa.
- Vòng tròn đen bên trái gọi là Chân thủy.
Hai vòng đen trắng: Chân thủy, Chân hỏa tướng ứng với hai chấm nhỏ trắng đen mà ta thấy trong hình Thái Cực.
Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi, Lãn Ông đã vẽ hai hình để suy diễn Thái Cực ra Thận và các bộ phận.
Trong hệ thống Thận nói trên, đối với Lãn Ông, thì chỉ có Mệnh môn, Chân thủy, và Chân hỏa là quan trọng nhất.
Quyển Huyền Tẫn Phát Vi và quyển Châu Ngọc Cách Ngôn của Lãn Ông nguyên bàn về Chân hỏa, Chân thủy, các chứng bệnh do chúng phát sinh cũng như cách trị liệu.

B. SINH LÝ HỌC VÀ BỆNH LÝ HỌC VỀ MỆNH MÔN
Như đã nói, Mệnh môn gồm có ba phần:
- Mệnh môn ở chính giữa, chủ trị Nam tính, Nữ huyết, tức là có ảnh hưởng nhiều đến cơ quan sinh dục.[5]
- Chân hỏa hay Tướng hỏa, thuộc Dương, chủ trì về sinh dục của con người.
- Chân thủy, thuộc Âm, điều khiển sự chuyển hóa về huyết dịch trong người.
Chân thủy, Chân hỏa trong con người cần phải hòa hợp, cộng tác với nhau thì cơ thể mới được khoẻ mạnh, nếu như một bên mà thiên thắng, thì cơ thể sẽ mất thế quân bình và sẽ sinh bệnh tật. Một thầy thuốc giỏi chính là người biết điều hòa Âm Dương để gây lại được thế quân bình đã mất.[6]
Vì Chân hỏa, Chân thủy quan hệ bậc nhất như vậy, nên chúng ta sẽ khảo sát chúng một cách tường tận hơn.
1. Chân hỏa (Tướng hỏa, Long hỏa): le Principe thermique [7]
Chân hỏa góp phần rất lớn vào công cuộc biến dưỡng nơi con người (métabolisme).
- Nó chủ trì mọi sinh hóa.
- Nó giúp cho tì vị hoạt động hẳn hoi, giúp cho sự tiêu hóa được dễ dàng.
- Nó giúp cho phổi được hoạt động hữu hiệu.
- Giúp khí huyết vận chuyển điều hòa.
- Nó giúp cho da thịt được săn khít.
- Nó giúp cho thần trí được minh mẫn.
        a. Hỏa thịnh
Nếu hỏa thịnh (Dương thịnh), con người sẽ khoẻ mạnh, thịt xương rắn chắc.
        b. Hỏa kháng (hỏa thái quá)
Nếu hỏa thái quá (kháng Dương), sự sinh hóa sẽ bị kích thích quá mức, và con người sẽ táo khát, cơ thể sẽ mất nước. Đó là trường hợp «thượng nhiệt, hạ táo» mà Lãn Ông đề cập đến trong Châu Ngọc Cách Ngôn (q.thượng, tr.3a).
        c. Hỏa hư
Nếu hỏa hư, các hiện tượng sinh hóa sẽ bị đình trệ , con người sẽ trở nên yếu đuối, xanh xao, lông tóc sẽ dễ rụng, tì vị sẽ làm việc kém đi, sự tiêu hóa sẽ trở nên chậm chạp và con người sẽ bị sình hơi, trướng bụng, ăn uống khó tiêu, hay bị ẩu tả. Mặt khác, da cũng không được săn khít, khiến các khổng (sphincters) không được bền chặt, cho nên hay bị nôn mửa, đi xông, di tinh, ra mồ hôi trộm, v.v.
Hỏa hư cũng có thể làm cho con người trở nên bì quyện, hôn trầm.
Hỏa hư, Dương hư còn gây ra chứng «phù hỏa». Phù hỏa là hỏa bốc lên đầu, tan ra bì phu, trong khi đó thì chân tay lạnh, tạng phủ lạnh. Lãn Ông gọi thế là triệu chứng «thượng nhiệt, hạ hàn» (xem Châu Ngọc Cách Ngôn, q.1, tr.2a).
2. Chân thủy (le Principe aqueux)
Chân thủy chủ trì các sự vận chuyển tân dịch, huyết dịch trong người, làm cho cơ thể trở nên nhuần đượm, triển dương, lông tóc óng ả mầu mỡ.
        a. Thủy quá thịnh
Thủy quá thịnh sẽ làm cho huyết dịch trong người trở nên úng trệ (stase, infiltration d’eau, rétention d’eau, aumentation du volume sanguin), phù thũng (oedème).
        b. Thủy hư
Nếu thủy hư, âm hư, huyết dịch trong người sẽ bị giảm thiểu (hémoconcentration, réduction des liquides extra-cellulaires), chẳng những thế, các tân dịch (sécrétions) trong người cũng giảm đi.
3. Phương pháp trị liệu
Phương pháp trị liệu ở đây là phải điều hòa Âm Dương.
        a. Bổ thủy
Nếu hỏa thịnh, thủy hư, sẽ bổ thủy. Bổ thủy để chế Dương quang (bổ thủy dĩ chế Dương quang).
        b. Bổ hỏa
Nếu thủy thịnh, hỏa hư, sẽ bổ hỏa. Bổ hỏa để dẫn hỏa qui nguyên, bổ hỏa để tiêu trừ sự u ám, khuất lấp của Âm (dẫn hỏa dĩ phản nguyên; bổ hỏa dĩ tiêu Âm ế).
Bổ hỏa bằng bài bát vị ; bổ thủy bằng bài lục vị.
        c. Bát vị
Bài bát vị do Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) sáng chế ra để chữa cho Hán Vũ Đế. Bài bát vị gồm 8 vị như sau:
Bổ Âm (-) = 1. Đơn bì, 2. Phục linh, 3. Trạch tả.
Bổ Dương  (+) = 4. Quế, 5. Phụ.
Bổ Âm (-) = 6. Thục địa, 7. Hoài sơn, 8. Sơn thù.[8]
        d. Lục vị
Tiền Ất (thế kỷ XI, khoảng 1093) chuyên trị về nhi khoa đã bỏ hai vị Quế và Phụ trong bài bát vị nói trên mà chế thành bài lục vị.
Thoạt tiên Tiền Ất dùng bài lục vị để bồi bổ cho trẻ con mau lên cân, chóng lớn.
Sau này các danh y mới dùng lục vị để bổ thủy.
Trong quyển Huyền Tẫn Phát Vi ta thấy Lãn Ông chỉ dùng có hai bài bát vị và lục vị nói trên với những biến đổi gia giảm mà chữa được vô số kỳ bệnh, quái bệnh.
Tóm lại, đối với Lãn Ông:
- Thận là Thái Cực.
- Mệnh môn là Thái Cực.
- Thái Cực có Âm Dương.
- Mệnh môn có Chân thủy, Chân hỏa.
- Thái Cực, Âm Dương có quan trọng thế nào đối với vũ trụ thì Thận, Mệnh môn, Chân thủy, Chân hỏa cũng quan hệ đến sức khỏe con người như vậy.
Chữa bệnh mà chữa được tới căn bản, mà biết tài bồi căn bản thì lo chi bệnh không lành, người không khoẻ.

C. QUAN NIỆM VỀ THẬN CỦA LÃN ÔNG ĐỐI CHIẾU VỚI TÂY Y
Quan niệm của Lãn Ông về Thận có rất nhiều điểm tương tự với những khái niệm mới mẽ nhất về Tuyến thượng thận (glandes surrénales; capsules surrénales; surrénales; adrenal glands) của Tây y.
1. Sự phân chia Mệnh môn của Lãn Ông ăn khớp với sự phân chia vỏ thượng thận (cortex surrénal; adrenal cortex) của sinh lý học hiện đại.
* Lãn Ông chủ trương:
- Chân hỏa chủ trì về sinh khí, sinh lực trong con người.
- Chân thủy chủ trì huyết dịch trong người.
- Mệnh môn chủ trì về sinh dục.
* Khoa sinh lý học ngày nay chủ trương:
Vỏ thượng thận gồm 3 phần:
Vùng chùm (Zone fasciculée du cortex surrénal) tiết ra những chất glucocorticoðdes (như Hydrocortisone hay composé F. cortisone) ảnh hưởng rất sâu xa đến sự biến dưỡng (métabolisme) của chất đạm, chất thịt (matière protidique), chất đường (matière glucidique) và chất mỡ (matière lipidique) trong cơ thể và như vậy ảnh hưởng đến sinh lực trong người.
Vùng võng đới (Zone réticulée du cortex surrénal) tiết ra những chất Minéralocorticoides (như Aldostérone, Désoxycorticostérone) ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch của các chất điện giải (électrolytes) như Na (Sodium), K (Potassium), và Cl (Chlore); và như vậy, ảnh hưởng lớn đến số lượng tân dịch, huyết dịch trong người (métabolisme hydrique).
Vùng đới cầu (Zone glomérulaire du cortex surrénal) tiết ra những kích thích tố sinh dục (như Hormone androgène, Hormone oestrogène, progestrérone, v.v.) nhưng với số lượng rát ít, sánh với dịch hoàn (testicules) và buồng trứng (ovaires).
2. Các bệnh trạng mà Lãn Ông mô tả về Mệnh môn cũng tương tự như những bệnh trạng mà Tây y hiện nay mô tả về vỏ thượng thận.
a. Lãn Ông cho rằng nếu hỏa hư thủy thịnh, huyết dịch trong người sẽ ứ đọng, con người có thể sinh đàm suyễn, hay phình nước.
Nếu ta cho bệnh nhân dùng nhiều chất Désoxycorticostérone (thủy thịnh), ta cũng thấy những triệu chứng như trên (oedème, alcalose avec respiration superficielle).
b. Lãn Ông cho rằng nếu Tướng hỏa mà hư, con người có thể trở nên hôn trầm bì quyện, ăn uống khó tiêu; dễ ẩu, dễ tả; hoặc bị di tinh (spermatorrhée), bất lực (impuissance); thịt nhão, hay mệt, hay đau bụng, đau người vì khí huyết chuyển vận không được điều hòa.
Nếu Chân thủy hư, con người sẽ ngày một trở nên khô kiệt (dessication progressive) hoặc mắc phải những chứng huyết khô (hémoconcentration), gầy rạc (maigreur, cachexie).
Trong bệnh Addison (bệnh lao tuyến thượng thận), các vùng thượng thận đều bị thương tổn, ta thấy:
+ Những triệu chứng Âm hư như:
          - Sự biến loạn trong sự chuyển dịch của nước và máu (pertubations du métabolisme de l’eau, hémoconcentration).
          - Gầy rạc (cachexie progressive).
+ Những triệu chứng Dương hư như:
          - Mệt mỏi (asthénie).
          - Ẩu (=nôn mửa), tả (vomissement et diarrhée).
          - Người lạnh (hypothermie).
          - Bất lực (impuissance), vô tự (=vô sinh, stérilité).
          - Đau bụng.
          - Ngất (lypothymie), hôn mê (coma), xỉu (collapsus).
c. Lãn Ông cho rằng có nhiều bệnh trạng sinh ra là do sự mất quân bình của thủy hỏa.
Gần đây giáo sư Seylie cũng chủ trương rằng trước sự tấn công đa diện (situations stressantes) của tà khí, thất tình, tai nạn, vi trùng, độc tố, nhiều khi con người phản ứng lại một cách bừa bãi, không thích nghi; chính vì thế mà cơ thể bị giao động thác loạn, chấn kích nên sinh bệnh.
Những bệnh chứng do sự giao động, chấn kích, thác loạn ấy, truy nguyên là do não thùy (hypophyse) bị kích thích nên đã phát tiết ra những kích thích tố như hormone corticotrope (ACTH), hormone somatotrope (STH). Những kích thích tố này sẽ kích thích những vùng của vỏ thượng thận (cortex surrénal) làm cho nó tấy lên (hypertrophie) và tiết ra những chất glucocorticoðdes, ảnh hưởng đến sự biến dưỡng (métabolisme) và minéralocorticoðdes ảnh hưởng đến tân dịch (sécrétion), huyết dịch (sang et liquides extracellulaires).
Như vậy các bệnh do sự phản ứng bừa bãi (syndrome de mal-adaptation, syndrome d’adaptation) sinh ra cũng là do sự mất quân bình giữa thủy (hormones minéralocorticodes) hỏa (hormones glucocorticodes).
d. Lãn Ông chủ trương rằng: Trẻ con thời «thuần Dương vô Âm» nên sự biến dưỡng rất dễ bị kích động, huyết dịch rất dễ bị suy vi, vì thế chỉ được dùng lục vị (cf. Châu Ngọc Cách Ngôn, tr.38).
Những người lớn thì hai khí Âm Dương quân bình hơn.
Còn những người già thì Âm Dương nhị khí đều suy.
Giáo sư Seylie cũng viết: «Trẻ con phản ứng mạnh, nên mau bệnh cũng như mau lành. Người lớn phản ứng ít hơn nên quen với các sự kích động của ngoại cảnh. Còn những người già thì yếu ớt đối với bệnh tật và các sự chấn kích của cuộc đời, vì thế nên dễ chết.» [9]

KẾT LUẬN
Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài coi Thái Cực trong thân người là Thận và Mệnh môn, vì Thái Cực phải là toàn thể con người, không phải là cái trứng nguyên thủy khi thụ tinh và bắt đầu phân hóa.
Ta có thể không đồng ý với Lãn Ông ở chỗ ngài cho rằng Mệnh môn đã có trước tất cả các tạng phủ, vì theo khoa phôi thai học (embryologie) ngày nay, thực tế không phải như vậy.[10]
Nhưng ta không thể không bái phục ngài, vì ngài đã đi từ Thái Cực, từ quẻ Khảm mà suy ra được Mệnh môn cùng với Chân thủy, Chân hỏa, và áp dụng Dịch lý để suy diễn ra các trạng thái Âm Dương suy thịnh trong con người.
Tây y đã dùng khoa giải phẫu, dùng kính hiển vi, dùng các phương pháp khoa học mà khám phá ra được vỏ thượng thận (cortex surrénal) và các công năng của nó.
Nhưng khi ta đối chiếu lại kết quả của hai đàng cũ mới, thì thấy đôi bên cũng không mấy khác nhau.
Đó chẳng phải là điều đáng làm cho chúng ta bỡ ngỡ hay sao?
Ngoài ra cũng phải ghi nhận rằng Lãn Ông và Phùng thị đã bàn về Mệnh môn, đã chữa về thủy hỏa từ thế kỷ XVIII. Ấy là ta chưa muốn nói rằng quan niệm về Mệnh môn đã manh nha từ thời Biển Thước (225 tcn), các phương dược để trị thủy hỏa đã có từ thời Trương Trọng Cảnh (thế kỷ 2 tcn) và Tiến Ất (thế kỷ 11).
Ngược lại, tất cả những khám phá về «Tuyến thượng thận» chỉ có từ thế kỷ XIX đến nay.
Các bài bát vị, lục vị đã có từ thời Trọng Cảnh (thế kỷ II tcn) và Tiền Ất (thế kỷ XI cn), còn các chất ACTH, STH, Cortisone, Hydrocortisone, và Désoxycorticostérone mới được tinh chế khoảng chứng mấy chục năm nay.
Thiết tưởng những bài thuốc hay như bát vị, lục vị, những bài thuốc tỏ ra hiệu nghiệm từ nhiều thế kỷ qua rất đáng được chúng ta quan tâm mà khảo sát lại.
Giáo sư Huard cho rằng khi so sánh Mệnh môn của Lãn Ông với các Tuyến thượng thận của Tây y, tôi đã có hảo ý muốn bắc một nhịp cầu giữa Đông y và Tây y.[11] Tôi xét mình chưa xứng đáng với lời khen tặng đó.


SUMMARY
THE «KIDNEYS» IN ORIENTAL MEDICINE by NGUYEN VAN THO
According to Oriental medicine, the «kidneys» are not only the two pea-shaped organs of modern anatomy. With this word, one must conceive a complicated system, including the genito-urinary tract and the endocrine glands, the adrenal cortex in particular.
The author, analysing two volumes of Lan Ong’s encyclopedia, suggests that the right kidney, known in traditional medicine as the «Gate of Life» with its three elements (thermal, aqueous, and sexual) might be likened to the three historical zones of the cortex, namely the zona glomerulosa, the zona fasciculata, and the zona reticularis.
(Phuong Dong, November 1972, No 17)