19 tháng 2 2016

Huyệt dũng tuyền chữa ho do nhiễm lạnh

( Nguồn tại: suckhoecuoituan.com )

Mẹo chữa ho do nhiễm lạnh không dùng kháng sinh, 1 đêm là khỏi

Y học cổ truyền có 1 cách chữa ho do nhiễm lạnh rất đơn giản nhưng cực kỳ hiệu quả, hơn nữa lại không phải dùng thuốc để điều trị, đó là cách làm ấm huyệt Dũng tuyền.

Trong cái giá lạnh khắc nghiệt của miền Bắc, điều làm cha mẹ lo lắng nhất là trẻ có thể bị nhiễm lạnh dẫn đến các triệu chứng ho, cảm, sốt...

Đặc biệt, đối với những người có cơ địa kích ứng thường bị ho khan kéo dài khi trời lạnh dẫn đến những khó chịu trong cơ thể, ảnh hưởng đến sinh hoạt.

Y học cổ truyền có 1 cách chữa ho do nhiễm lạnh rất đơn giản nhưng cực kỳ hiệu quả, hơn nữa lại không phải dùng thuốc để điều trị, đó là cách làm ấm huyệt Dũng tuyền.

1. Tác dụng của huyệt Dũng tuyền trong trị ho do nhiễm lạnh

Huyệt Dũng tuyền là một huyệt nằm ở vị trí lõm giữa lòng bàn chân, tại điểm nối 2/5 trước và 3/5 sau của đoạn thẳng nối từ đầu ngón chân thứ 2 đến bờ sau của gót chân.



Huyệt Dũng tuyền.

Đông y coi huyệt Dũng tuyền là tỉnh huyệt của đường kinh túc thiếu âm thận, huyệt đặc trị để trừ hư hỏa, giáng khí nghịch.

Đây là 1 huyệt khá quan trọng, có liên quan đến toàn thân. Khi tác động làm nóng huyệt này sẽ có tác dụng tạo hiệu ứng giáng khí, lưu thông khí huyết, đưa phần nóng từ phía trên xuống dưới bàn chân.

Trong Đông y, việc ho do nhiễm lạnh được tạo ra bởi chứng khí nghịch. Khi làm ấm huyệt Dũng tuyền chính là cách đối trị chứng khí nghịch, vì thế mà triệt tiêu được nguyên nhân của những cơn ho dai dẳng.

2. Cách làm ấm huyệt Dũng tuyền trị ho do lạnh

- Chuẩn bị 1 lọ dầu nóng như dầu cù là, dầu khuynh diệp, dầu tràm...

- Trước khi đi ngủ ngâm chân với nước ấm, sau đó lau khô.

- Bôi dầu nóng vào huyệt Dũng tuyền.

- Dùng ngón tay day huyệt Dũng tuyền, mỗi bên 15 phút, luân phiên mỗi bên như vậy 3 lần.

- Đi tất vào và đi ngủ.

3. Hiệu quả bất ngờ

Lương y Lộc Thị Quốc trong cuốn Tạp chí Cây thuốc quý số 254 trang 29 gọi cách chữa ho này là một "phương pháp đơn giản nhưng hiệu quả rất kỳ diệu".

Theo lương y Lộc Thị Quốc: "Nhiều trường hợp có thể thấy ngay hiệu quả sau đêm đầu tiên. Điều này đặc biệt hiệu quả đối với trẻ em, kể cả trẻ em mới vài tháng tuổi".

Cũng theo lương y Quốc, cách day bấm huyệt Dũng tuyền 15 phút mỗi bên bàn chân, thực hiện luân phiên 3 lần mỗi chân có thể làm khỏi ngay đến 80%, tuy nhiên không nên day quá nhiều sẽ dẫn đến hiệu quả ngược.

Nếu vẫn còn ho thì buổi trưa làm 1 lần, buổi tối làm 1 lần nữa trước khi đi ngủ. Cứ kiên trì như vậy thì không cần dùng thuốc ho hay kháng sinh gì cả.

4. Lưu ý khi áp dụng

Theo bác sĩ Cao Thị Thanh Hương, phụ trách phòng khám Đông y, Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp cách trị ho bằng huyệt dũng tuyền chỉ hiệu quả đối với các chứng ho do nhiễm lạnh.

Khi áp dụng với trẻ em, cần phải khám để loại trừ khả năng viêm nhiễm trước khi áp dụng bởi nếu trẻ bị ho do viêm nhiễm sẽ có những biến chứng rất nhanh gây nguy hiểm cho sức khỏe của trẻ.

Hơn nữa, nếu trẻ ho do viêm nhiễm, áp dụng cách kích hoạt huyệt Dũng tuyền sẽ không có tác dụng.

Theo: Soha

Lá xoài chữa bệnh tiểu đường

( Nguồn tại: suckhoecuoituan.com )

Mỗi ngày chỉ cần 5 lá xoài non, cả nhà không cần phải sợ bệnh tiểu đường nữa

Theo Y học cổ truyền, lá xoài có vị chua ngọt, tính mát, có tác dụng làm mát, lợi tiểu, chống sa nội tạng, được dùng trị bệnh hô hấp như ho, viêm phế quản cấp hay mạn tính, phù thũng.



Trong y học phương Đông, bệnh tiểu đường hay còn gọi là đái tháo đường thuộc chứng bệnh tiêu khát. Bên cạnh việc chữa trị bằng thuốc Tây thì bạn có thể áp dụng một số cách trị tiểu đường từ thảo dược tự nhiên cũng rất tốt, lại không gây ra tác dụng phụ. Hơn nữa, những loại cây thuốc chữa tiểu đường lại có sẵn và rất dễ kiếm ở Việt Nam, chẳng hạn như lá xoài non. 

Gia đình mình có rất nhiều người ngoài 30 tuổi bị tiểu đường nên lá xoài non đã trở thành “đặc sản” không thể thiếu. Mẹ mình thường vào vườn hái lá và đem phơi khô để dùng dần, rất hiệu quả nhé các bạn.


Lá xoài non phơi khô.

Trong lá xoài chứa chất anthoxanthin, có tác dụng hạ đường huyết, phòng các biến chứng ở mắt và mạch máu do bệnh tiểu đường. Kết quả nghiên cứu ban đầu của Đại học Queensland (Úc) cho thấy một số hợp chất trong xoài có tác dụng chữa bệnh tương tự như các loại thuốc trị tiểu đường và làm giảm cholesterol. Chính vì thế, nhiều bác sĩ châu Âu đã sử dụng lá xoài như một phương thuốc hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường vô cùng hiệu quả.

Những kết quả nghiên cứu đều cho thấy chỉ số đường huyết (glycemic index) của xoài rất thấp, vào khoảng 41-60, do đó xoài sẽ không gây tăng lượng đường trong máu.

Cách dùng lá xoài để trị bệnh tiểu đường

Lấy khoảng 5 lá xoài non cắt sợi rồi cho vào cốc, đổ nước sôi vào rồi để qua đêm. Mỗi sáng uống hết ly nước lá xoài này, bỏ phần xác.

Ngoài ra, bạn có thể sử dụng lâu dài bằng cách phơi lá xoài non trong bóng râm cho đến khi khô, đem nghiền thành bột dùng vào buổi sáng và chiều, mỗi lần nửa thìa cà phê bột lá xoài pha loãng với ly nước đầy.


Bạn nghiền lá xoài thành bột rồi cất đi để dùng dần.

Lưu ý

– Vì bài thuốc này giúp làm giảm lượng đường trong máu rất công hiệu nên cần lưu ý không áp dụng nhiều lần trong ngày, vì có thể khiến cho lượng đường huyết giảm quá thấp gây nên chứng hạ đường huyết rất nguy hiểm.

– Không nên uống nước lá xoài cận thời gian với các loại thuốc khác, tốt nhất là uống cách nhau chừng 2-3 tiếng để không làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ các loại thuốc điều trị khác

Theo Bestie.vn

04 tháng 2 2016

Cơ thể con người là một bầu thái cực

HỌC THUYẾT THUỶ HOẢ - Bài 01 -
   Chúng ta thường nghe câu  " nhân thân tiểu thiên địa "  và cũng đều được nghe rằng thiên địa của vũ trụ bao la vận hành sinh diệt vô thường. Từ thời xa xưa, các cổ nhân đã mô phỏng, gán ghép và luận giải về Thiên - Địa - Nhân qua rất nhiều luận điểm, nhưng hầu chung quy lại bằng ý nghĩa bao hàm rộng lớn và không cùng là " bầu thái cực ". Cơ thể con người là một bầu thái cực, điều này thật ý nghĩa cho cơ sở lập luận và luận giải những phương pháp tác động đến cơ thể con người để khắc phục những khiếm khuyết, sự cố bệnh tật mà cơ thể gặp phải của Y học cổ truyền phương Đông. Mặc dù khả năng, kiến thức hạn hẹp và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, nhưng với sự nhiệt tình giãi bày, luận bàn cùng những cảm nhận, liên tưởng của bản thân, tôi mạnh dạn đưa ra những luận bàn mang tính tham khảo và có tính chất tản mạn lúc thư nhàn tới quý vị, hy vọng quý vị có được đôi phút thư thái, cảm nhận về đất trời ...
Hình ảnh núi lửa Calbuco, Chile. Sưu tầm tại:  http://vnexpress.net/photo/khoa-hoc/nhung-vu-phun-trao-nui-lua-du-doi-nhat-nam-2015-3334358.html
     Tâm ví như trời, soi rọi ánh bình minh tới muôn nơi, thúc đẩy sinh hoá để vạn vật sinh sôi, không có ánh mặt trời trái đất sẽ tối tăm mù mịt, cây cỏ sẽ tự huỷ hoại, vạn vật không tìm được con đường sinh sôi. Nhưng sự thái quá của ánh nắng mặt trời sẽ gây nên khô nóng, hạn hán huỷ diệt, hoặc như bất cập gây nên nạn lạnh giá, đông tuyết cũng khiến sự sống chia lìa.
     Phế ví như bầu khí quyển và không khí bao bọc khắp đất trời, nơi giao hoà của thuỷ hoả để biến hoá mây mưa tưới tắm cho sự sống tốt tươi. Bầu khí quyển và sự chiếu rọi ánh sáng năng lượng từ mặt trời có sự kết hợp hài hoà như mối quan hệ phế với tâm, giúp cho sự biến hoá trong vận hành nguồn khí hậu thiên cần thiết cho sự sống.
    Tỳ vị ví như đất lành, nơi cội rễ bắt nguồn cho sự sống, nuôi dưỡng và bồi đắp cho nguồn sống mãi mãi xanh tươi.
    Can ví như cây cỏ thảo mộc bao bọc bề mặt trái đất, thanh lọc không khí. Việc đơm  hoa kết trái và tinh chất từ cây cỏ ví như chất dinh dưỡng chiết xuất ra để dưỡng hoá sự sống. Hoa trái và tinh chất từ cây cỏ ví như dịch mật trong đởm tiết ra để giúp cho sự vận hoá của nguồn khí hậu thiên nuôi dưỡng sự sống.  
    Thận ví như biển hồ, sông ngòi, cung cấp nguồn thuỷ dịch vô tận cho sự biến hoá, vận hành của sự sống, nhu nhuận và hài hoà những thái quá khô cứng của đất trời. Thanh lọc và làm tươi mới nguồn thuỷ dịch quý giá có trên trái đất này.   

   Khối dung nham nóng chảy trong lòng trái đất ví như hoả của mệnh môn, là thứ hoả tiên thiên sởi ấm, cân bằng dương khí cho trái đất và không khí bao quanh trái đất. Hoả này mà lụi tắt trái đất chúng ta sẽ ngay lập tức bị cái giá lạnh của bầu khí quyển ập đến huỷ diệt sự sống, hoả này phun trào quá nhiều lên bề mặt trái đất sẽ gây hoạ khô cháy cả không khí và cũng sẽ tiêu diệt hình thái của trái đất, tiêu diệt sự sống trên trái đất. Hoả dung nham cũng tồn tại nơi đáy biển ví như chân hoả trong thận thuỷ giúp dương khí ( nhiệt năng ) làm ấm áp cho nước, cũng là cung cấp nhiệt năng cho không khí bao quanh trái đất từ hơi ấm nước biển, từ nguồn nước ấm áp trong lòng đất.


27 tháng 1 2016

Đông chí nhất dương sinh, hạ chí nhất âm sinh

" Qua tiết đông chí thì nhất dương đã sinh ra rồi, tiết trời đáng lẽ phải ấm dần, tại sao tháng chạp lại rét nhiều và có băng tuyết ?. Tiết hạ chí nhất âm đã sinh rồi, tiết trời đáng lý mát dần, tại sao trong tiết tam phục lại nóng nực dữ dội ?. Đó là do các khí sắp đến dồn đuổi, thì cái khí đã hết nhiệm kỳ phải rút lui ngầm mà không thể thấy rõ được. Bởi vì dương phục ở dưới mà dồn đuổi âm lên trên hay âm thịnh ở trong dồn đuổi dương ra ngoài vậy "
( Hải Thượng y tông tâm lĩnh, tập y gia quan miện, thiên âm dương ) 


25 tháng 1 2016

Luận bàn về vô cực và thái cực

Trích dẫn thông tin sưu tầm từ thiên hạ:        
     Thái Cực là danh từ được dùng đầu tiên ở kinh Dịch. Quyển kinh này quan niệm rằng lúc Trời Ðất chưa hình thành là Thái Cực (còn gọi là Thái Sơ, Thái Nhất nữa). Sau đến đời nhà Tống, có Chu Ðôn Di vẽ ra một bức Thái Cực đồ, có thuyết minh kỹ càng, nhằm giải thích ý nghĩa hàm ngụ và sự biến hóa phát triển của ý niệm Thái Cực. 
      Nghĩa đen của hai chữ Thái Cực: Thái là lớn lao, cực là trạng thái ban sơ hoặc cao cấp nhất của sự vật. Bởi vì ngày xưa không có ai biết vũ trụ , lúc quả đất chưa xuất hiện , thực sự như thế nào, thời gian ấy dài bao nhiêu triệu năm? cho nên cổ nhân mới đành đặt gọi cái vũ trụ lúc bấy giờ là Thái Cực, hoặc là Vô Cực. Trong Thái Cực đồ khuyết của Chu Ðôn Di, câu đầu tiên là "Vô Cực Nhi Thái Cực" (Nhi ở đây có nghĩa "tức là", nghĩa là Vô Cực tức là Thái Cực, chớ không phải là từ Vô Cực mà sinh ra Thái Cực). Ý niệm này còn được mô tả trong câu "Thái Cực bản Vô Cực" (Thái Cực vốn là Vô Cực).
Mô phỏng vô cực

Mô phỏng thái cực ( thái cực đồ )

............................................................................
Lời bàn của tại hạ 
     Vậy chúng ta có thể luận được qua nội dung phân tích trên rằng: trong kinh dịch dùng từ "thái cực" là nói đến trạng thái ban sơ ban đầu khi trời đất chưa hình thành, nó cũng có nghĩa như khi sau này các bậc cổ nhân đã gọi là vô cực bởi cùng nghĩa là trạng thái ban đầu khi trời đất chưa hình thành. Còn việc Chu Đôn Di vẽ ra đồ hình thái cực ( thái cực đồ ) và luận giải là thời điểm con người chúng ta đã thấu hiểu tư duy về âm dương, trời đất, vậy là giai đoạn này đã trải qua rất nhiều bước cảm nhận của tư duy con người, vận hành kiến tạo của trời đất ( sau Phục Hy và Văn Vương rất nhiều ). Thực chất theo tôi thì thái cực đồ có sự tổng hợp tất cả ý nghĩa, nội dung của học thuyết âm dương và bao hàm hết sự kết hợp các loại hào, quẻ trong 64 quẻ trong kinh dịch vậy nên gọi thái cực đồ là biểu thị cho ý nghĩa của từ " thái cực " có trong kinh dịch mang trùng ý nghĩa " vô cực " là chưa hợp lý. Trong thái cực đồ đã có sự lồng ghép đầy đủ của âm dương mà điều đặc biệt là "âm ở trong dương" và "dương ở trong âm" thì lưỡng nghi hay tứ tượng làm sao có được sự phối hợp ấy, chỉ đến bát quái mới có cặp quẻ Ly và khảm mới đạt đến sự mô phỏng như vậy ( biểu thị trong thái cực đồ là hai chấm trắng và đen nhỏ, trong quẻ ly là hào âm ở giữa hai hào dương, trong quẻ khảm là hào dương ở giữa hai hào âm ). 

     Và như vậy việc chúng ta hay nói cụm từ mô tả sự tiến hóa sau " thái cực sinh lương nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái ... " là đúng khi nghĩa của từ " thái cực " trùng với nghĩa của từ " vô cực " chứ khi ta dùng từ " thái cực " là nghĩa mô phỏng cho "thái cực đồ", thì trình tự cụm từ mô tả sự tiến hóa của sự vật hiện tượng và tư duy con người như trên là chưa hợp lý.

















17 tháng 1 2016

Học thuyết kinh lạc

I. ĐỊNH NGHĨA
   Kinh lạc là tên gọi chung của kinh mạch và lạc mạch trong cơ thể. Kinh là đường thẳng, là cái khung của hệ kinh lạc và đi ở sâu. Lạc là đường ngang, là cái lưới, từ kinh lạc chia ra như mạng lưới đến khắp mọi nơi và đi ở nông. Kinh lạc phân bố ra toàn thân, là con đường vận hành của âm dương, khí huyết, tân dịch, khiến cho con người từ ngũ tạng, lục phủ, cân, mạch, cơ nhục, xương…kết thành một chỉnh thể thống nhất. 
Trên đường đi của kinh lạc có tập trung rất nhiều các huyệt vị, ngoài ra có một số huyệt vị không nằm trên các đường kinh lạc.

II. CẤU TẠO CỦA HỆ KINH LẠC
2.1. Kinh mạch và lạc mạch
2.1.1. Mười hai kinh mạch chính
    Tay
          - 3 kinh âm
            + Thủ thái ấm phế có 11 huyệt mỗi bên gồm: Trung phủ, vân phủ, thiên phủ, hiệp bạch, xích trạch, khổng tối, liệt khuyết, kinh cừ, thái uyên, ngư tế, thiếu thương
            + Thủ thiếu âm tâm có 9 huyệt mỗi bên, gồm: cực tuyền, thanh linh, thiếu hải, linh đạo, thông lý, âm khích, thần môn, thiếu phủ, thiếu xung.
            + Thủ quyết âm tâm bào lạc có 9 huyệt mỗi bên, gồm: thiên trì, thiên tuyền, khúc trạch, khích môn, gian sử, nội quan, đại lăng tuyền, lao cung, trung xung.
           - 3 kinh dương
            + Thủ thái dương tiểu trưởng có 19 huyệt mỗi bên, gồm: thiếu trạch, tiền cốc, hậu khê, uyển cốt, dương cốc, dưỡng lão, chi chính, tiểu hải, kiên trinh, nhu du, thiên tông, bỉnh phong, khúc viên, kiên ngoại du, kiên trung du, thiên song, thiên dung, quyền liêu, thính cung.
            + Thủ thiếu dương tam tiêu có 23 huyệt mỗi bên, gồm: quan xung, dịch môn, trung chữ, dương trì, ngoại quan, chi câu, hội tông, tứ độc, thiên tỉnh, thanh lãnh uyên, tiêu lạc, nhu hội, kiên liêu, thiên liêu, thiên dũ, ế phong, khế mạch, lư tức, giác tôn, nhĩ môn, hòa liêu, ty trúc không.
            + Thủ dương minh đại trường có 20 huyệt mỗi bên, gồm: Thương dương, nhị gian, tam gian, hợp cốc, dương khê, thiên lịch, ôn lưu, hạ liêm, thượng liêm, thủ tam lý, khúc trì, trửu liêu, ngũ lý, tý nhu, kiên ngung, cự cốt, thiên đỉnh, phù đột, hòa liêu, nghinh hương.
    Chân:  
        - 3 kinh âm
            + Túc thái âm tỳ có 21 huyệt mỗi bên, gồm: ẩn bạch, đại dộ, thái bạch, công tôn, thương khâu, tam âm giao, lậu cốc, địa cơ, âm lăng tuyền, huyết hải, cơ môn, xung môn, phủ xá, phúc kết, đại hoành, phúc ai, thực đậu, thiên khê, hung hương, chi vinh, đại bao.
            + Túc thiếu âm thận có 27 huyệt mỗi bên, gồm: dũng tuyền, nhiên cốc, thái khê, đại chung, thủy tuyền, chiếu hải, phục lưu, giao tín, trúc tân, âm cốc, hoàng cốt, đại hách, khí huyệt, tứ mãn, trung chú, hoang du, thương khúc, thạch quan, âm đô, thông cốc, u môn, bộ lang, thần phong, linh khư, thần tàng, quắc trung, du phủ.
            + Túc quyết âm can có 14 huyệt mỗi bên, gồm: đại đôn, hành gian, thái xung, trung phong, lãi câu, trung đô, tất quan, khúc tuyền, âm bao, ngũ lý, âm liêm, cấp mạch, chương môn, kỳ môn.
        - 3 kinh dương
            + Túc thái dương bàng quang có 67 huyệt mỗi bên, gồm: tinh minh, toản trúc, mi xung, khúc sai, ngũ xứ, thừa quang, thông thiên, lạc khước, ngọc chẩm, thiên trụ, đại trữ, phong môn, phế du, quyết âm du, tâm du, đốc du, cách du, can du, đởm du, tỳ du, vị du, tam tiêu du, thận du, khí hải du, quan nguyên du, tiểu trường du, bàng quang du, trung lữ du, bạch hoàn du, thương liêu, thứ liêu, trung liêu, hạ liêu, hội dương, thừa phù, ân môn, phù khích, ủy dương, ủy trung, phụ phân, phách hộ, thần đường, y hy, cách quan, hồn môn, dương cường, ý xá, vị thương, hoang môn, chí thất, bào hoang, trật biên, hợp dương, thừa cân, thừa sơn, phi dương, phụ dương, côn lôn, bộc tham, thân mạch, kim môn, kinh cốt, thúc cốt, thông cốc, chí âm.
            + Túc thiếu dương đởm có 44 huyệt mỗi bên, gồm: đồng tử liêu, thính hội, thượng quan, hàm yếm, huyền lư, huyền ly, khúc tần, suất cốc, thiên xung, phù bạch, khiếu âm, hoàn cốt, bản thần, dương bạch, lâm khấp, mục song, chính đỉnh, thừa linh, não không, phong trì, kiên tỉnh, uyên dịch, triếp cân, nhật nguyệt, kinh môn, đới mạch, ngũ khu, duy đạo, cự liêu, hoàn khiêu, phong thị, trung độc, dương quan, dương lăng tuyền, dương giao, ngoại khâu, quang mình, dương phụ, huyền chung, khâu khư, túc lâm khấp, địa ngũ hội, hiệp khê, túc khiếu âm.
            + Túc dương minh vị có 45 huyệt mỗi bên, gồm: thừa khấp, tứ bạch, cự liêu, địa thương, đại nghinh, giáp xa, hạ quan, đầu duy, nhân nghinh, thủy đột, khí xá, khuyết bổn, khí hộ, khố phòng, ốc ế, ưng song, nhũ trung, nhũ căn, bất dung, thừa mãn, lương môn, quan môn, thái ất, hoạt nhục môn, thiên khu, ngoại lăng, địa cơ, thủy đạo, quy lai, khí xung, bễ quan, phục thỏ, âm thị, lương khâu, độc tỵ, túc tam lý, thượng cư hư, điều khẩu, hạ cư hư, phong long, giải khê, xung dương, hãm cốc, nội đình, lệ đoài.
BIỂU TÓM TẮT 12 KINH CHÍNH
Kinh chính
Đường tuần hành
Biểu hiện bệnh lý
Tác dụng chữa bệnh
Kinh Bệnh
Tạng Phủ Bệnh Chứng
Thủ Thái âm PHẾ KINH (Mỗi bên 11 huyệt)
Mặt trong, bờ trước của tay, từ hố nách ngực chạy ra ngón tay chiều ly tâm
Đau nơi kinh đi qua, đau nhiều thì tay bắt chéo ôm ngực, mắt tối sầm, tim đập loạn
Ngực đầy tức, ho, khó thở, khát, tiểu gắt, nước tiểu vàng, gang tay nóng, cảm phong hàn thì có sốt và gai rét
Sốt bệnh ở ngực, phế, họng, thanh quản, tiểu ít, khó hành khí hoạt huyết, khí huyết ứ trệ
Thủ Dương minh ĐẠI TRƯỜNG (Mỗi bên có 20 huyệt)
Mặt ngoài, bờ trước của tay, từ ngón trỏ chạy lên mặt, chiều hướng tâm
Đau, sưng nơi kinh đi qua, ngón trỏ và cái khó vận động. Tà khí thịnh thì sưng đau
Mắt vàng, miệng khô họng, chảy máu cam, bụng đau, sôi, nếu hàn : tiêu chảy. Nếu nhiệt : tiêu nhão, dính, táo bón. Tà thịnh : sốt phát cuồng
Sốt, bệnh ở đầu, mặt, mắt, mũi, miệng, tai, họng, mắt, bao tử, ruột
Túc Dương minh VỊ KINH (Mỗi bên có 45 huyệt)
Mặt ngoài, giữa chân, từ dưới mắt xuống chân theo chiều ly tâm
Sưng đau nơi kinh đi qua, chảy máu cam, miệng, môi mọc mụn, miệng méo, chân teo lạnh, tà khí thịnh : sốt cao, vã mồ hôi, có thể cuồng
Vị nhiệt : ăn nhiều, nước tiểu vàng, nóng nẩy trong người, có thể phát cuồng khát nước.
Vị hàn : đầy bụng, ăn ít
Sốt cao, bệnh ở đầu, mặt, mắt, mũi, răng, họng, bao tử, ruột, bệnh tâm thần, bệnh thần kinh
túc thái âm tỳ kinh (mỗi bên có 21 huyệt)
mặt trong, bờ trước chân, từ ngón chân cái lên ngực, theo chiều hướng tâm
người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau, mặt trong chi dưới phù, cơ ở chân tay teo
bụng trên đau, đầy, ăn khó tiêu, nôn, nuốt khó, ỉa chảy, tiểu không thông
bệnh ở bụng trên, bao tử, ruột, bệnh sinh dục, tiết niệu
Thủ Thiếu âm TÂM KINH (Mỗi bên có 9 huyệt)
Mặt trong, bờ sau của tay, từ hố nách ngực ra ngón tay, theo chiều ly tâm
Đau nơi kinh đi qua, gan tay nóng hoặc lạnh, miệng khô, khát, mắt đau
Vùng tim đau, nấc khan, sườn ngực đau tức,
thực : phát cuồng
hư : hay sợ hãi
Bệnh ở tim, ngực, bệnh tâm thần
Thủ Thái dương TIỂU TRƯỜNG (Mỗi bên có 19 huyệt)
Mặt ngoài, bờ sau tay, từ ngón tay lên mặt, theo chiều hướng tâm
Đau sưng nơi kinh đi qua, điếc, mắt vàng, cổ gáy cứng đau
Bụng dưới đau trướng, đau lan ra thắt lưng, xiên xuống dịch hoàn, tiêu chảy, táo bón, bụng đau
Sốt, bệnh ở đầu gáy, cổ, mắt, tai, mũi, họng, bệnh tâm thần, thần kinh
Túc Thái dương BÀNG QUANG (Mỗi bên có 67 huyệt)
Mặt ngoài, bờ sau chân, từ ngón chân lên đầu mặt, theo chiều hướng tâm
Sốt, đau nơi kinh đi qua, mắt đỏ, chảy nước mắt, chảy máu cam, chảy nước mũi
Bụng dưới đau tức, đái dầm, đái không thông
Sốt, bệnh ở đầu gáy, mũi, mắt, thắt lưng, hậu môn, tạng phủ, tâm thần
Túc Thiếu âm THẬN KINH (Mỗi bên có 27 huyệt)
Mặt trong, bờ trong chân, từ chân lên ngực, theo chiều hướng tâm
Đau nơi kinh đi qua, miệng nóng, lưỡi khô, họng sưng, mặt trong chân lạnh, lòng bàn chân nóng
Phù, đái không thông, ho ra máu, suyễn, thích nằm, mắt hoa, da xạm, hồi hộp, tiểu chảy lúc gần sáng
Bệnh ở bụng dưới, sinh dục, tiết niệu, ruột, bệnh ở họng, phế
Thủ Quyết âm TÂM BÀO (Mỗi bên có 9 huyệt)
Mặt trong, giữa tay, từ nách ngực ra ngón tay, theo chiều ly tâm
Mặt đỏ, nách sưng, khuỷ tay co quắp, gang tay nóng
Vùng tim đau, bồn chồn, ngực sườn tức, tim đập mạnh, cuồng, nói sảng, hôn mê
Sốt, bệnh ở ngực, tim, bao tử, bệnh tâm thần
Thủ Thái dương TAM TIÊU (Mỗi bên có 23 huyệt)
Mặt ngoài, giữa tay, từ ngón tay lên đầu mặt,weo chiều hướng tâm
Đau sưng nơi kinh đi qua, tai ù, điếc, mặt đau đỏ, ngón tay thứ 4 khó cử động
Bụng đầy trướng, bụng dưới cứng, đái không thông, đái gắt, đái són, phù
Sốt, bệnh ở đầu, thái dương, mắt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, bệnh tâm thần
Túc Thiếu dương ĐỞM KINH (Mỗi bên có 44 huyệt)
Mặt ngoài, bờ trước chân, từ đầu xuống chân, theo chiều ly tâm
Đau sưng nơi kinh đi qua, sốt rét, điếc, lao hạch, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ 4 khó vận động
Cạnh sườn đau, ngực đau, miệng đắng, nôn
Sốt, bệnh ở đầu, thái dương, mắt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, bệnh tâm thần
Túc Quyết âm CAN KINH (Mỗi bên có 14 huyệt)
Mặt trong, bờ trong cẳng chân, từ ngón chân lên ngực, theo chiều hướng tâm
Đau đầu, váng, mắt hoa nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, co giật, đái khó, đái dầm
Ngực tức, nôn, nấc, bụng trên đau, da vàng, nuốt nghẹn, thoái vị, bụng dưới đau, tiêu chảy
Bệnh ở mắt, hệ sinh dục, đường tiểu, bệnh ở bao tử, ruột, ngực, sườn
2.1.2. Tám kinh mạch phụ
        - Nhâm mạch có 24 huyệt, gồm: hội âm, khúc cốt, trung cực, quan nguyên, thạch môn, khí hải, âm giao, thần khuyết, thủy phân, hạ quản, kiến lý, trung quản, thượng khoản, cự khuyết, cưu vỹ, trung đỉnh, đản trung, ngọc đường, tử cung, hoa cái, toàn cơ, thiên đột, liêm tuyền, thừa tương. 
        - Đốc mạch có 28 huyệt, gồm: trường cường, yêu du, dương quan, mệnh môn, huyền khu, tích trung, trung khu, cân súc, chí dương, linh đài, thần đạo, thân chủ, đào đạo, đại chùy, á môn, phong phủ, não hộ, cường gian, hậu đỉnh, bách hội, tiền đình, tín hội, thượng tinh, tố liêu, nhân trung, đoài đoan, ngân giao.        
        - Xung mạch      
        - Đới mạch
        - Âm duy mạch
        - Dương duy mạch 
         - Âm kiểu mạch
         - Dương kiểu mạch
2.1.3. Kinh biệt, kinh cân, biệt lạc, tôn lạc, phủ lạc.
    - 12 kinh biệt đi ra từ 12 kinh chính
    - 12 kinh cân nối liền các đầu xương ở tứ chi không vào phủ phủ tạng.
    - 15 biệt lạc đi từ 14 đường kinh mạch biểu lý với nhau và một tổng lạc.
    - Tôn lạc: từ biệt lạc phân nhánh nhỏ.
    - Phù lạc: từu tôn lạc nổi ở ngoài da.
2.2. Huyệt
    Gồm 319 huyệt ở đường kinh chính, 52 huyệt ở 2 đường kinh phụ cộng là 371 huyệt nằm trên 14 đường kinh (nếu kể cả 2 bên là 319 x 2 + 52 = 690 huyệt) và khoản cách 200 huyệt ngoài đường kinh (hiện nay bên Trung Quốc đã tìm và đặt tên thêm nhiều huyệt nữa).
- Bát giao hội huyệt xem ở đây: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2015/05/bat-giao-hoi-huyet.html
- Bát huyệt hội xem ở đây http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2015/05/la-ten-goi-cua-8-huyet-co-tac-dung-tot.html
- Lục tổng huyệt xem ở đây: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2015/05/luc-tong-huyet.html
- Huyệt đặc hiệu
- Ngũ du huyệt
- Huyệt bồi bổ
2.3. Kinh khí và kinh huyết vận hành trong kinh lạc.
Ngoài tác dụng chung còn mang tính chất của đường kinh mà nó cư trú.

III. TÁC DỤNG CỦA HỆ THỐNG KINH LẠC
3.1. Về sinh lý
    - Hệ thống kinh lạc thông hành khí huyết trong các tổ chức của cơ thể chống ngoại tà bảo vệ cơ thể.
    - Hệ thống kinh lạc liên kết các tổ chức cơ thể (tạng, phủ, tứ chi, chín khiếu, cân mạch, xương, da…) có chức năng khác nhau thành một khối thống nhất.
3.2. Về mặt bệnh lý
    Khi công năng hoạt động cảu hệ kinh lạc bị trở ngại, gây kinh khí không thông suốt thì dễ bị ngoại tà xâm nhập và gây bệnh. Bệnh thường truyền từ ngoài vào trong, từ ngoài da cơ nhục vào tạng, tức là từ kinh mạch vào phủ tạng.
    Bệnh ở phụ tạng thường có những biểu hiện bệnh lý ở đường kinh mạch đi qua: vị nhiệt thì loét miệng, cơn đau ngực do co thắt động mạch vành thì đau ở tâm kinh…
3.3. Về chẩn đoán
    Kinh mạch nối liền với tạng phủ và có đường đi ở những vị trí nhất định cảu cơ thể. Căn cứ vào những thay đổi cảm giác (đau, tức, trướng), điện sinh vật trên đường đi cảu kinh mạch nười ta chẩn đoán bệnh thuộc tạng phủ nào đó gọi là kinh lạc chẩn. Thí dụ: Nhức đầu vùng đỉnh do can, đau nửa bên đầu do đởm, đau sau gáy thuộc bàng quang…
    Ngoài ta người ta còn đo thông số về điện sinh vật của các tỉnh huyệt (huyệt tận cùng đầu chi cảu các kinh) hay nguyên huyệt (huyệt chính của một đường kinh) bằng máy đo kinh lạc để đánh giá được tình trạng hư thực của khí huyết (huyết tay trái, khí tay phải) hoặc tình trạng hư thực cảu phủ so với số liệu trung bình hoặc so hai bên cơ thể với nhau…
3.4. Về chữa bệnh
    Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất vào phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu, xoa bóp và thuốc.
    Châm cứu và xoa bóp đã thành một phương pháp chữa bệnh độc đáo đạt nhiều thành tựu to lớn, sẽ được giới thiệu kỹ trong các phần sau.
    Học thuyết kinh lạc chỉ đạo việc quy tác dụng của thuốc tương ứng với tạng, phủ hay đường kinh nào đó gọi là sự quy kinh của thuốc.
    Thí dụ:
    - Quế chi vào phế nên chữa ho, cảm mạo.
    - Ma hoàng vào phế nên chữa ho hen, vào bàng quang nên có tác dụng lợi niệu.


Náng hoa trắng chữa bệnh tuyến tiền liệt



Đặc điểm của cây náng hoa trắng

Về tên gọi của cây náng hoa trắng

  • Tên khác: Cây lá náng, Hoa náng, Tỏi lơi, Đại tướng quân, Chuối nước, Náng sumatra.
  • Tên khoa học: Crinum asiaticum L
  • Tên đồng nghĩa: Crinum toxicarium L., C. Sumatranum Roxb., C. Amabile Donn., C. Cochinchinensis Roem.
  • Họ: Náng hay họ Thủy tiên (Amaryllidaceae).
  • Tên nước ngoài: Asian poison bulb, Crinole asiatique.

Đặc điểm hình dáng

Cây cỏ cao khoảng 1 m, sống nhiều năm nhờ than hành. Lá đơn, mọc cách, tập trung ở gốc thành hình hoa thị. Phiến lá chất dai, hình dải dạng bản, phẳng, dày, nạc, đầu thuôn nhọn, gốc nở rộng thành bẹ, dài 85-110 cm, rộng 10-15 cm, màu xanh lục, nhẵn ở cả hai mặt, mặt trên màu sậm hơn; mép lá nguyên, không lượn sóng; gân giữa lồi ở mặt dưới, mặt trên hơi lõm xuống thành hình lòng máng, các gân bên song song. Cụm hoa tán đơn độc, mọc lên từ thân hành qua nách bẹ lá, mang 25-35 hoa. Hoa to, đều, lưỡng tính, mẫu 3, hình loa kèn, màu trắng tuyền, thơm, đứng thẳng. Cuống hoa hình trụ dẹp, gốc nở rộng, dài 1-2 cm, màu xanh, nhẵn. Quả nang, hình cầu, đường kính 3-5 cm. Hạt rộng khoảng 3 cm, có góc, có rốn hạt, nội nhũ nạc bao lấy phôi nhỏ.

Phân bố, sinh học và sinh thái

Cây mọc hoang ở những nơi ẩm ướt hay trồng làm cảnh, trồng bằng dò. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Indonesia. Loại cây này thường ra hoa vào mùa hè.

Thành phần hóa học

Trong Náng hoa trắng có alkaloid gọi là lycorin C16H17NO4. Thân và bẹ lá chứa alkaloid: baconin, licorin, crinasiatin, hipadin; trái chứa ungeremin, criasbetain. Alkaloid được phân bố cả lá, hoa, dò, quả.

Nghiên cứu về Náng hoa trắng và u xơ tuyến tiền liệt

Cây náng hoa trắng khá dễ trồng và có thể sử dụng tất cả các bộ phận của cây để làm thuốc. Đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như các nhà khoa học trong nước đã cho thấy kết quả khả quan về tác dụng của loài cây này. Đề tài “Nghiên cứu cây náng hoa trắng (Crinum asiaticum L.) làm thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt” của Viện Dược Liệu đã kết luận:
  • Náng hoa trắng có tác dụng làm giảm phì đại lành tính trên tuyến tiền liệt lên tới 35,4%.
  • Náng hoa trắng có tác dụng chống viêm mạn rất tốt, có khả năng làm giảm trọng lượng u hạt tới 25,4 %.
  • Khi sử dụng Náng hoa trắng trong thời gian kéo dài cũng không gây tác dụng phụ hay độc tính.

Náng hoa trắng hay trinh nữ hoàng cung?

Cây trinh nữ hoàng cung vốn được coi là dược liệu để chữa trị các khối u như: u xơ tử cung, u nang buồng trứng… Các nghiên cứu đều cho thấy sự gần gũi về thành phần hóa học (alcaloid) cũng như các tác dụng chống viêm, chống độc tế bào của Náng hoa trắng và Trinh nữ hoàng cung. Nhưng hàm lượng Alcaloid toàn phần (thành phần chính có tác dụng lên khối phì đại tiền liệt tuyến) trong Náng hoa trắng (0.97%) lại lớn gấp 2 lần so với Trinh nữ hoàng cung (0.49%). Vì vậy nếu sử dụng náng hoa nắng chữa bệnh phì đại tuyến tiền liệt sẽ có hiệu quả tốt hơn so với trinh nữ hoàng cung.

Vương Bảo sản phẩm có thành phần từ cây náng hoa trắng

Náng hoa trắng được sử dụng khá nhiều trong y học. Nhưng đa phần mọi người vẫn chưa biết về tác dụng của nó mà chỉ sử dụng lá tươi trong một số trường hợp như bong gân, sai gân, bầm tím, sưng tấy khi ngã… Tại Ấn Độ thường dùng củ ép lấy nước pha loãng để làm thuốc gây nôn, không gây tẩy, không đau đớn, cũng có thể nhỏ vào tai chữa đau tai. Ngoài cách sử dụng trên, Náng hoa trắng thường được sử dụng cho bệnh nhân phì đại tiền liệt tuyến ở dạng dịch chiết. Khi sử dụng trên người bệnh phì đại tuyến tiền liệt, Náng hoa trắng giúp làm giảm kích thước khối phì đại, từ đó giảm chèn ép lên niệu đạo. Một lợi điểm nữa của việc sử dụng Náng hoa trắng đó là không gây ra các tác dụng phụ hay làm ảnh hưởng đến khả năng tình dục của người bệnh- một nhược điểm lớn mà những thuốc điều trị phì đại tiền liệt tuyến hay gặp phải.
Náng hoa trắng hiện nay được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng chế tạo dạng viên nén tiện sử dụng. Thực phẩm chức năng Vương Bảo với hàm lượng cao Náng hoa trắng, Hải trung kim, Sài hồ nam và Rau tàu bay, giúp ngăn ngừa và hạn chế sự phát triển của u xơ (phì đại lành tính) tiền liệt tuyến. Đồng thời giúp cải thiện các rối loạn tiểu tiện ở bệnh nhân u xơ tiền liệt tuyến: tiểu đêm, tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu không hết, tiểu nhiều lần…
Theo tuyentienliet.com.vn tổng hợp

Phỏng vấn TS. Nguyễn Bá Hoạt về cây Náng hoa trắng

Sau khi bài viết ”Náng hoa trắng – Khắc tinh số một của u xơ tiền liệt tuyến” được đăng trên số báo trước, chúng tôi đã nhận được nhiều câu hỏi phản hồi của quý bạn đọc về cây thuốc quý Náng hoa trắng. Để giúp quý độc giả hiểu rõ hơn về cây thuốc này, nhóm phóng viên đã có một buổi phỏng vấn TS. Nguyễn Bá Hoạt, chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu cây Náng hoa trắng làm thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt”. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Xin chào TS. Xin TS chia sẻ lý do TS chọn cây Náng hoa trắng để tiến hành nghiên cứu ạ?
Việc chọn Náng hoa trắng là xuất phát từ bản thân tôi. Năm 2000, tôi được chuẩn đoán bị u xơ tiền liệt tuyến. Trọng lượng tiền liệt tuyến siêu âm được khoảng 45-47g. Bác sĩ bệnh viện Việt Xô còn chỉ định mổ. Sau đó, tôi được một người bạn mách cho bài thuốc Náng hoa trắng chữa u xơ tiền liệt tuyến. Sau 2 ngày bài thuốc này, tôi thấy triệu chứng bí tiểu giảm. Thấy có kết quả khả quan, tôi tiếp tục sử dụng kéo dài thì thấy u xơ tiền liệt tuyến nhỏ dần, không phải mổ nữa. Cho tới nay đã hơn 14 năm, tiền liệt tuyến của tôi vẫn ổn định ở trọng lượng 22-23g. Từ đó, tôi mới đăng kí với Viện Dược Liệu đề tài nghiên cứu Náng hoa trắng làm thuốc chữa u xơ tiền liệt tuyến.
Phỏng vấn TS. Nguyễn Bá Hoạt về cây Náng hoa trắng 1
TS. Nguyễn Bá Hoạt – Nguyên Viện phó Viện Dược Liệu TW
TS đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu cây Náng hoa trắng làm thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt” trong bao lâu?
Tôi đã nghiên cứu cây Náng hoa trắng trong vòng 8 năm. Đề tài được bắt đầu năm 2001, đến năm 2005 được nâng lên cấp bộ. Năm 2008 thì nghiệm thu. Đó là một quá trình dài gồm rất nhiều nghiên cứu nhỏ như nghiên cứu phân bố, nghiên cứu hóa học, xác định thành phần hoạt chất chính, nghiên cứu độc tính, nghiên cứu dược lý, các nghiên cứu về chiết xuất và bào chế thuốc… Hội đồng nghiệm thu còn đề nghị tôi làm thêm các nghiên cứu đánh giá tác dụng của Náng hoa trắng trên tim mạch, huyết áp, thần kinh vì bài thuốc này sử dụng trên người cao tuổi là chính. Các nghiên cứu được đề nghị đều đã được thực hiện, kết quả cho thấy: Náng hoa trắng không gây tác dụng phụ, an toàn cho người cao tuổi.
Quả thật là một nghiên cứu rất kĩ lưỡng và nhiều tâm huyết. Sau khi nghiên cứu về Náng hoa trắng, TS có đánh giá gì về cây thuốc này ạ?
Kết quả nghiên cứu rất khả quan, Náng hoa trắng hoàn toàn có thể bào chế thành thuốc chữa u xơ tiền liệt tuyến. Với cá nhân tôi thì Náng hoa trắng tốt hơn Trinh nữ hoàng cung, một cây thuốc có tác dụng tương tự. Theo tôi Náng hoa trắng có 3 lợi thế hơn Trinh nữ hoàng cung:
Lợi thế thứ nhất: Thành phần nhóm hoạt chất chính có tác dụng ức chế tế bào u bướu là alcaloid toàn phần trong Náng hoa trắng cao hơn nhiều so với Trinh nữ hoàng cung. Trong đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành so sánh hàm lượng alcaloid toàn phần của Náng hoa trắng và một số cây khác như Náng hoa đỏ, Trinh nữ hoàng cung trong cùng một điều kiện. Kết quả cho thấy hàm lượng alcaloid trong Náng hoa trắng là cao nhất (0,97%), cao gấp 2 lần so với Trinh nữ hoàng cung (0,49%).
Lợi thế thứ hai: hàm lượng chất xanh của Náng hoa trắng rất cao. 1 lá của Náng hoa trắng đã có thể nặng bằng cả cây Trinh nữ hoàng cung.
Lợi thế thứ ba: cây Náng hoa trắng rất dễ trồng. Ở miền Bắc, Trinh nữ hoàng cung thường lụi vào mùa đông nhưng Náng hoa trắng thì tốt quanh năm. Náng hoa trắng có thể chịu được hạn tốt, chịu được nước úng tốt, chịu được cả nước lợ, nói chung cây này có sức sống rất mãnh liệt.
Về tác dụng thực tế, Náng hoa trắng cũng không thua kém Trinh nữ hoàng cung. Đã có nhiều người dùng Trinh nữ hoàng cung không có hiệu quả, nhưng chuyển sang dùng Náng hoa trắng thì lại khỏi bệnh. Rất tiếc sau năm 2008, khi tôi về hưu thì Viện Dược Liệu không tiếp tục nghiên cứu để biến Náng hoa trắng thành thuốc.

Vâng, xin cám ơn TS về buổi phóng vấn rất thú vị này. Kính chúc TS luôn mạnh khỏe!

VTV2 phỏng vấn trực tiếp TS Nguyễn Bá Hoạt về cây Náng hoa trắng:

Kế thừa và phát huy những bài thuốc cổ truyền từ náng hoa trắng, Vương Bảo là sản phẩm đầu tiên trên thị trường kết hợp dược liệu  quý này và  các vị thuốc khác. Vương Bảo giúp hỗ trợ điều trị và ngăn ngừa phát triển u xơ tiền liệt tuyến, cũng như giảm nhanh các triệu chứng khó chịu do căn bệnh này gây ra, giúp trả lại sự tự tin và bản lĩnh vốn có cho phái mạnh.