BÀI THUỐC
|
VỊ THUỐC
|
LIỀU LƯỢNG
(gram) |
ỨNG DỤNG ĐIỀU TRỊ
|
MA HOÀNG THANG
|
Ma hoàng
|
12
|
Phát hãn giải biểu, khu phong tán hàn, tuyên thông
phế khí.
Ngoại cảm phong hàn, sốt sợ
lạnh, ngạt mũi, sổ mũi, ho, đau đầu, chân tay đau mỏi khó chịu, mạch phù
khẩn, không có mồ hôi ( biểu thực )
VPQ mạn tính, HPQ mạn
|
Quế chí
|
8
|
||
Hạnh nhân
|
12
|
||
4
|
|||
QUẾ CHI THANG
|
Quế chi
|
12
|
Điều hòa dinh vệ, phát hãn giải biểu.
Ngoại cảm phong hàn, sốt sợ
gió,ho khan, đau đầu, không khát, rêu lưới trắng, mạch phù hoãn hoặc phù nhược,
có
mồ hôi, (biểu hư )
CMPH kèm vai gáy cứng đau
Đau khớp không có sưng nóng
đỏ đau.
Phụ nữ có thai bị ngén (
nôn nhiều )
|
Sinh khương
|
12
|
||
Bạch thược
|
12
|
||
6
|
|||
Đại táo
|
3q
|
||
TỨ QUÂN TỦ THANG
|
Đảng sâm
|
10
|
Ích khí kiện tỳ dưỡng vị
Tỳ vị khí hư, mặt trắng
bệch, tiếng nói nhỏ yếu, chân tay yếu, ăn ít, ỉa sệt, lưỡi nhợt, mạch tế hoãn
|
Bạch truật
|
9
|
||
Phục linh
|
9
|
||
6
|
|||
TỨ VẬT THANG
|
Xuyên khung
|
8
|
Bổ huyết hoạt huyết
Kinh nguyệt không điều hòa,
đau bụng vùng rốn, rong kinh, băng kinh, huyết hà thành cục lúc đau lúc
không, động thai ra huyết. Sau khi đẻ huyết hôi ko ra kết lại khiến bụng dưới
đau, phát sốt
Thiếu máu, dị ứng nổi ban
|
Đương quy
|
10
|
||
Thục địa
|
12
|
||
Bạch thược
|
12
|
||
BÁT TRÂN
THANG
|
Xuyên khung
|
4
|
Bổ khí huyết
Trị hư suy khí huyết, sắc
mặt bệch hoặc màu vàng rơm, đầu váng, chân tay mỏi yếu, khí đoản, tim hồi
hộp, ăn ít, lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế hư, tế nhược, vô lực
|
Đương quy
|
4
|
||
Thục địa
|
4
|
||
Bạch thược
|
4
|
||
Đảng sâm
|
4
|
||
Bạch truật
|
4
|
||
Phục linh
|
4
|
||
2
|
|||
LỤC VỊ THANG
|
Thục địa
|
32
|
Tư âm bổ can thận ( bổ thủy )
Trị can thận âm hư. Lưng
đau, gối mỏi, đầu váng, chóng mặt, ù tai, mồ hôi trộm, di tinh. Hoặc âm hư
hỏa bôc gây cốt chưng, triều nhiệt, lòng bàn tay, chân nóng. Tiêu khát, mồm
họng khô, răng đau, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.
|
Sơn thù du
|
16
|
||
Sơn dược
|
16
|
||
Trạch tả
|
12
|
||
Đan bì
|
12
|
||
Bạch linh
|
12
|
||
BÁT VỊ THANG
|
Thục địa
|
32
|
Ôn bổ thận dương ( bổ hỏa )
Thận dương bất túc. Lưng
đau, gối mỏi, tiểu không lợi. Thường lạnh nửa người dưới, bụng dưới đau, lưới
nhạt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế
|
Sơn thù du
|
16
|
||
Sơn dược
|
16
|
||
Trạch tả
|
12
|
||
Đan bì
|
12
|
||
Bạch linh
|
12
|
||
Nhục quế
|
4
|
||
Phụ tử chế
|
2
|
||
THẬP TOÀN ĐẠI BỔ
|
Xuyên khung
|
4
|
Bổ khí bổ huyết bổ dương ( dùng cho người thiếu máu
ko phải âm hư )
Trị hư suy khí, huyết, âm,
dương.Sắc mặt bệch hoặc màu vàng rơm, đầu váng, chân tay mỏi yếu, khí đoản,
tim hồi hộp, ăn ít, lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế hư, di tinh ở nam
giới, băng lậu ở phụ nữ,
|
Đương quy
|
4
|
||
Thục địa
|
4
|
||
Bạch thược
|
4
|
||
Đảng sâm
|
4
|
||
Bạch truật
|
4
|
||
Phục linh
|
4
|
||
2
|
|||
Hoàng kỳ
|
4
|
||
Nhục quế
|
2
|
||
QUY TỲ THANG
|
Viễn chí
|
4
|
Ích khí bổ huyết kiện tỳ dưỡng tâm.
Tâm tỳ lưỡng hư. Suy nghĩ
quá độ làm tổn thương tâm tỳ, khí huyết bất túc. Tim hồi hộp, hay quên, mất
ngủ, mồ hôi trộm, ăn ít, mệt mỏi, mặt vàng sạm, lưới nhợt, rêu lưỡi trắng
mỏng, mạch tế hoãn.
Tỳ không nhiếp huyết: ỉa
máu, rong băng kinh, kinh trước kỳ lượng nhiều sắc nhợt, đái són hoặc khí hư
bạch đới.
|
Toan táo nhân
|
4
|
||
Phục thần
|
4
|
||
Long nhãn
|
4
|
||
Nhân sâm
|
2
|
||
Bạch truật
|
4
|
||
Hoàng kỳ
|
4
|
||
1
|
|||
Đương quy
|
4
|
||
Mộc hương
|
2
|
||
ĐỘC HOẠT TANG KÝ SINH THANG
|
Đỗ trọng
|
8
|
Khu phong, trừ thấp, bổ can thận.
Chứng tý lâu ngày, can thận
đều hư suy, khí huyết bất túc. Lưng đau, gối mỏi, khớp co duỗi khó khăn.
|
Độc hoạt
|
12
|
||
Tang ký sinh
|
8
|
||
Tần giao
|
8
|
||
Tế tân
|
8
|
||
Ngưu tất
|
8
|
||
Quế chi
|
8
|
||
Xuyên khung
|
8
|
||
Đương quy
|
8
|
||
Thục địa
|
8
|
||
Bạch thược
|
8
|
||
8
|
|||
Nhân sâm
|
8
|
||
Phục linh
|
8
|
||
Phòng phong
|
8
|
30 tháng 6 2014
Mười bài thuốc cổ phương
28 tháng 6 2014
Cỏ nhọ nồi cầm máu
Hôm qua ( 27/6/2014 ) tôi qua bệnh viện RHM TW nhổ chiếc răng sâu số III6, thật là một quyết tâm !
Do tiêm thuốc tê khi nhổ nên tôi không thấy cảm giác đau đơn gì. Ngay sau khi nhổ xong bác sĩ nhét miếng bông gòn tẩm chất chờ đông máu vào chỗ chiếc răng vừa bị nhổ rồi yêu cầu tôi ngậm chặt trong khoảng hai giờ đồng hồ và không được nhổ nước nhãi mà cần phải nuốt vào để máu đông. Tôi thực hiện đúng lời dặn của bác sĩ, về đến nhà và đợi đúng hai tiếng tôi bỏ miếng bông gòn ra, miếng bông đẫm máu tươi, tôi nghĩ chắc nó còn rì chảy một ít rồi thôi. Tôi uống một số thuốc mà bác sĩ kê đơn ( chống nhiễm trùng, chống viêm, giảm đau ) rồi ngủ trưa. Một lúc sau tỉnh dậy thấy miệng mình đầy máu, có cục máu đông to bằng ngón tay cái trong miệng, tôi nhổ ra và hình dung như cục tiết canh vậy, trong khi đó máu vẫn chảy đỏ tươi trong miệng, nhưng không đau, há miệng ra thì máu me đỏ lòm thấy ghê.
Tôi liền dùng đá bọc vải chườm phía ngoài má ở vị trí răng nhưng một lúc thấy không tác dụng gì. Định quay ra bệnh viện RHM TW thì lúc này trời sắp tối và mai lại là thứ bẩy, tôi lo quá, giục vợ mua thuốc cầm máu tây y, uống vào không thấy giảm. Gần nhà tôi có phòng khám răng nhưng gần tối mọi người đã về hết. Thật là nguy nếu nó cứ chảy thế này qua đêm thì sáng mai không biết tôi sẽ như thế nào, chắc một chút thời gian nữa tôi phải gọi taxi đưa đến bệnh viện RHM TW để xử lý mất thôi ... cùng lúc đó tôi chợt nghĩ, hay ta dùng cỏ nhọ nồi, vậy là bảo vợ chạy đi tìm mua, tôi nghĩ không biết bà xã có kiếm được không vì bây giờ trời đã tối mà trời thì mưa to.Cuối cùng vợ cũng tha về được bó to cỏ nhọ nồi. Tôi bảo vợ chọn kỹ, rửa sạch và giã nhuyễn rồi tự mình nhúng bông gòn, khử khuẩn tay và vo bông gòn thành mồi tròn bằng hạt bi ve, sau đó nhét chặt vào chỗ răng vừa nhổ. Kệ máu me be bét, tôi ngậm chặt răng và miệng lại, ngồi thiền khoảng 30 phút rồi há miệng lấy miếng bông gòn ra, cả cục máu đông bằng đầu ngón tay cái lúc trước cũng bong ra theo thấy đen ngòm. Tôi làm tiếp một mồi nữa nhét vào và ngậm chặt răng đợi 30 phút tiếp theo. Lần này khi bỏ cục bông gòn ra thì chỉ thấy một chút xíu máu dính thấm ở cục bông và trên vết răng nhổ không thấy máu chảy ra nữa. Tôi làm tiếp một mồi nữa và ngậm khoảng một tiếng sau rồi bỏ ra và đi ngủ. Sáng dậy thấy chỗ vết chân răng đã nhổ khô, màu đen, không chảy chút máu nào. Vậy là đã ổn, thật tuyệt vời về tính năng cầm máu của cỏ nhọ nồi. Bây giờ thì tôi chỉ cần đợi khoảng một tháng để xem có thể lắp răng giả vào được không.
Qua lần xử lý này, tôi muốn viết lại để có thể giúp ích cho ai đó gặp những trường hợp tương tự thì có thể vận dụng mà xử lý hiệu quả, giúp giữ gìn sức khỏe của bản thân, tiết kiệm tiền bạc và đỡ tốn kém cho xã hội. Giúp được ai đó một việc có lợi, nhất là về sức khỏe thì còn gì bằng phải không quý vị ! Chúc quí vị luôn an bình, hạnh phúc !
THÁI CỰC ĐỒ VÀ THIÊN SUY
Mất cân bằng âm dương sinh bệnh tật nơi cơ thể con người
* Nguyên tắc của chữa bệnh là dùng các pháp chữa để lập lại cân bằng âm dương cho cơ thể.
* Thiên suy là khi âm hoặc dương có phần suy yếu, hao hụt, thường gọi là dương suy, âm suy hay dương hư hoặc âm hư
* Thiên suy thường là hư chứng và nguyên tắc chữa là dùng pháp bổ, ngoài ra còn sử dụng pháp hòa để bình bổ bình tả, ôn bổ ... ( phục chính khu tà )
( Như hình mô phỏng của thái cực đồ ở trên thì chúng ta có thể hình dung phần suy hư là phần bị thiếu hụt của mỗi phần nguyên bản ban đầu, trong đó màu đỏ mô phỏng phần dương và màu xanh mô phỏng phần âm, khi ta dùng phép bổ tức là ta bổ sung thêm, lấp đầy phần thiếu hụt đó để lập lại cân bằng như thế vốn có ban đầu vậy ! )
* Nguyên nhân gây ra thiên suy thường là nội nhân hoặc các bệnh kéo dài, cơ thể suy yếu do tuổi tác gồm:
- Tạng phủ hư suy, cân cơ, khí huyết suy yếu kéo dài
- Phần hư suy ( âm hoặc dương ) khiến phần kia thịnh hoặc xung lên ( dương hoặc âm )
* Dương suy ( hư ) thường gây các bệnh về hàn, ngoại hàn ...
* Âm suy và hư thường gây bệnh về nhiệt, nội nhiệt ...
24 tháng 6 2014
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN KHI SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH
- Dùng càng sớm khi phát hiện mắc bệnh càng tốt.
- Chỉ định kháng sinh theo dúng phổ tác dụng, khi nhiễm khuẩn đã xác định nên chọn kháng sinh có phổ hẹp.
- Dùng đủ liều để đạt được nồng độ đủ và ổn định tác dụng của thuốc, tránh dùng liều thấp rồi tăng dần hoặc liều cao rồi giảm dần.
- Dùng đủ thời gian (thường 5-10 ngày ). Trường hợp dùng dài như nhiễm khuẩn khớp háng /3 tháng, nhiễm khuẩn tiết niệu /2-4 tuần / viêm tuyến tiền liệt / 2 tháng, lao / 9 tháng hoặc 12 tháng...
- Chọn thuốc theo dược động học (hấp thu – phân phối – thải trừ), vị trí ổ nhiễm khuẩn, tình trạng bệnh nhân.
- Phối hợp một số kháng sinh để tăng tính năng của thuốc nếu thấy cần thiết.
- Trong điều trị nhiễm khuẩn phải phối hợp điều trị kháng sinh với các liệu pháp khác để tăng hiệu quả. VD: sỏi thận: Ks + phẫu thuật lấy sỏi...
23 tháng 6 2014
THÁI CỰC ĐỒ VÀ THIÊN THẮNG
* Mất cân bằng âm dương sinh bệnh tật nơi cơ thể con người
* Nguyên tắc của chữa bệnh là dùng các pháp chữa để lập lại cân bằng âm dương cho cơ thể.
* Thiên thắng là khi âm hoặc dương có phần trội hơn, thường gọi là dương thắng, âm thắng
* Thiên thắng thường là thực chứng và nguyên tắc chữa là dùng pháp tả
( Như hình mô phỏng của thái cực đồ ở trên thì chúng ta có thể hình dung phần thắng là phần thừa ra, thêm ra của mỗi phần nguyên bản ban đầu, trong đó màu đỏ mô phỏng phần dương và màu xanh mô phỏng phần âm, khi ta dùng phép tả tức là ta loại bớt phần thừa đó để lập lại cân bằng như thế vốn có ban đầu vậy ! )
* Nguyên nhân gây ra thiên thắng thường là ngoại tà và bất nội ngoại nhân gồm:
- Lục dâm: phong, hàn, thử, thấp, táo hỏa
- Ăn uống, dục tình, sang chấn, trùng thú cắn,...
* Dương thắng thường gây các bệnh về nhiệt, táo ...
* Âm thắng thường gây bệnh về hàn, nê trệ...
* Dương thắng tắc âm bệnh và âm thắng tắc dương bệnh là khi cái thế của thiên thắng vượt trội thì nó trèn ép gây cho bên đối ứng biến đổi không còn giữ được trạng thái bình thường được nữa, và đó là sự mất cân bằng sinh bệnh ở con người.
11 tháng 6 2014
Cây chùm ngây
Chùm ngây hay ba đậu dại[1] (danh pháp hai phần: Moringa oleifera) là loàithực vật thân gỗ phổ biến nhất trong Chi Chùm ngây (danh pháp khoa học:Moringa) thuộc họ Chùm ngây (Moringaceae), xuất xứ từ vùng Nam Á nhưng cũng mọc hoang và được trồng, khai thác, sử dụng nhiều nơi trên thế giới do có giá trị kinh tế cao.
Trong tiếng Anh, cây chùm ngây có nhiều tên gọi khác nhau như “cây thần diệu” (Miracle tree), “cây kỳ quan” (Wonder tree), “cây vạn năng” (Multipurpose tree), “cây độ sinh” (Tree of life, theo quan điểm nhà Phật), “cây cải ngựa” (Horseradish tree, do rễ non của cây có vị của cải ngựa, mù tạt), “cây dùi trống” (Drumstick tree, do thân/quả cây giống dùi trống), “cây dầu bel” (Bel-oil tree, do dầu ép từ hạt cây được bán với tên gọi bel-oil).
Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]
Cây thân mộc cao cỡ trung bình, ở độ tuổi trưởng thành cây có thể mọc cao hàng chục mét. 1 tuổi nếu không cắt ngọn cây có thể cao tới 5-6m và có đường kính 10 cm. 3-4 năm tuổi là cây ở độ tuổi trưởng thành. Thân cây óng chuốt, không có gai. Lá kép dài 30–60 cm, hình lông chim, màu xanh mốc; lá chét dài 12–20 mm hình trứng, mọc đối có 6-9 đôi. Cây trổ hoa vào các tháng 1–2. Hoa trắng kem, có cuống, hình dạng giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ, nhiều mật. Quả dạng nang treo, dài 25–40 cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh. Hạt màu đen, tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hà Lan.
Hoạt chất và dinh dưỡng[sửa | sửa mã nguồn]
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)