Hiển thị bài đăng được sắp xếp theo ngày cho truy vấn bàn về chữ khí. Sắp xếp theo mức độ liên quan Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị bài đăng được sắp xếp theo ngày cho truy vấn bàn về chữ khí. Sắp xếp theo mức độ liên quan Hiển thị tất cả bài đăng

08 tháng 7 2024

GIẢI THOÁT

    

       Chúng ta, những người không theo được đủ các đạo hạnh và thực hiện đây đủ được các pháp nhà Phật khi nghe nói tới cảnh giới Đắc Đạo, hay sự Giác ngộ, Giải Thoát, cõi Niết Bàn sẽ nghĩ ngay đến một cảnh giới cao siêu, thần thánh và Vĩnh Hằng của các vị Phật, Thánh. Nhưng khi đứng trên góc độ con người bình thường với tư duy về một thế giới vật chất hiện hữu để suy ngẫm về một con người đã tu tập và đạt tới cảnh giới đó sẽ nhận ra một điều rằng: đã là con người thì vẫn phải tuân theo quy luật bất biến của tự nhiên: sinh ; già ; bệnh ; chết bất kể đó là người thường hay một vị Phật. Vậy cảnh giới cao kia thực sự là gì khi mà thân xác con người không thể tồn tại Vĩnh hằng ở thế gian này ?

   Với sự cảm nhận những sự vật và quy luật của một kẻ phàm phu sống trong thế giới đương thời này, tại hạ xin được mạo muội giãi bày những phân tích của mình về sự giác ngộ và giải thoát mà Đức Phật đã nói đến từ xa xưa. 

Thân và Tâm - Hai nhân tố nói đến trong sự giải thoát của đạo Phật. 

Con người chúng ta khi đang sống ở thế gian này gồm hai thành phần CƠ THỂ và LINH HỒN ( TÂM )

CƠ THỂ, được cấu tạo bởi vật chất là các tế bào và  một phần mơ hồ chưa xác định được theo thế giới vật chất đó là những suy nghĩ, tưởng tượng, cảm xúc  … gọi nôm na là TINH THẦN ( linh hồn ); theo nhà Phật thì hai phần trong con người  đó là Thân và Tâm. 

THÂN chúng ta như là một cỗ máy, nhưng nó vô cùng tinh vi và kỳ diệu. TÂM chúng ta lại là một thực thể vô hình còn vi diệu hơn nữa. Thân và Tâm của mỗi người được gắn kết với nhau tạo thành một con người duy nhất không có bản sao chép tương tự trong thế giới loài người. 

THÂN là sự hiện diện của con người trong thế giới vật chất, còn TÂM là một … luồng sinh khí để vận hành, dẫn hướng cho những hoạt động của thân. 

Thân là cỗ máy chứa đựng tâm, hoạt động theo sự dẫn hướng của tâm; Tâm nương tựa, ẩn náu ở nơi thân, chi phối mọi hoạt động, biến đổi  nơi thân. 

Những dẫn dắt đến với tại hạ về Thân: 

Ở đây tại hạ không nói đến những điều tinh vi và kỳ diệu của cấu tạo cơ thể con người ( THÂN - lĩnh vực này loài người chúng ta cũng chỉ mới khám phá được một phần rất nhỏ của những bí ẩn mà tạo hoá đã tạo ra ) mà tại hạ muốn nói đến những liên quan của Thân với Tâm trong cảnh giới giác ngộ và giải thoát. 

Thân có ý nghĩa và giá trị như thế nào với sự giác ngộ và giải thoát của con người ? 

Thân là một cỗ máy chứa đựng tâm và thực hiện, truyền đạt những dẫn dắt từ tâm với thế giới bên ngoài của con người. Thân vô thường theo Phật Pháp là sự quán chiếu và nói lên sự thật về cái không Vĩnh hằng của thân. Thân sẽ bị hủy hoại và tan biến theo thời gian. Hiện loài người chúng ta chưa có một phương cách nào để có thể duy trì được sự Vĩnh hằng của thân. Thân là một cỗ máy vật chất được tạo thành bởi các tế bào sống, và như chúng ta đã biết thì tế bào sống cần năng lượng mà năng lượng thì không tự nhiên sinh ra và mất đi, chúng ta phải cung cấp năng lượng cho cơ thể để nuôi các tế bào. Vậy là chúng ta có sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp năng lượng để nuôi cơ thể, đây cũng là ngọn nguồn của những nỗi khổ mà con người phải gánh chịu; “ có thân thì có khổ, có khổ mới nên thân “; hay như trong chuyện Kiều: 

“ Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần, phải phong trần,

Cho thanh cao, mới được phần thanh cao “

 Rồi thân hủy hoại theo quy luật sinh lão mệnh tử, bao đau đớn, khổ nhọc với tấm thân của con người. 

Nhưng những nỗi khổ con người gánh chịu về Thân vẫn chỉ là cái hữu hình có thể nhìn thấy. Thân già, bệnh gây ra những nỗi khổ phản hồi tới tâm những đau đớn và bao buồn khổ. Cũng có những niềm vui nơi Thân tạo cho tâm bao hứng khởi và hưng phấn, mong muốn, … rồi lại đau khổ vì không thỏa mãn được những mong muốn đó. Tất cả những điều đó khiến chúng ta cứ ngỡ một cái ta duy nhất  Thân Tâm trong cơ thể. Thực chất Thân và Tâm có rất nhiều sự cách xa.

Thân sẽ tuân theo quy luật vô thường sinh già bệnh chết, bất luận chúng ta là ai và sự giải thoát trong đạo Phật về thân là biết thân vô thường, biết thân có sinh có diệt là lẽ thường để giải thoát sự bám víu nơi thân. Khi biết được sự vô thường của thân thì chúng ta đã đến được với giải thoát về thân. Từ sự sinh diệt trở thành không sinh không diệt trong quy luật vô thường của thân. Nhưng thân lại là nơi chứa đựng tâm, một cái tâm có thể chưa được giải thoát. Thân là một phương tiện, một ngôi nhà cho tâm trú ngụ. Có thể một tấm thân kiếp này và rất nhiều kiếp nữa cũng chưa đủ để gánh vác tâm đến bến bờ giải thoát. 

Quy luật của Tâm: 

1- Biến đổi không ngừng

Đó là cái tâm vô thường, luôn biến đổi trạng thái: vui, buồn, giận, hận, mơ mộng, bình thản, lo âu, hồi hộp, hoảng sợ, …. Gọi là hỉ nộ ái ố. 

2- Chịu sự ảnh hưởng của các giác quan 

Con người có nhiều giác quan: xúc giác ( cảm nhận mọi vật qua tiếp xúc bề mặt ); vị giác ( cảm nhận vị qua miệng, lưỡi ); thính giác ( cảm nhận âm thanh qua nghe ở Tai ); thị giác ( cảm nhận hình ảnh, ánh sáng qua đôi mắt ); khướu giác ( cảm nhận mùi hương qua mũi); còn một số giác quan đặc biệt mà rất hiếm người có được như giác quan về tâm linh, cảm nhận xuyên không gian, thời gian …

3- Ghi nhận những cảm giác từ thân một cách tự nhiên và chủ động. Khi ghi nhận chủ động sẽ dẫn tới điều phối thân và khắc phục những lỗi phát sinh nơi thân.

Đây là một phần rất quan trọng trong việc kiểm soát tình trạng của thân, là mối quan hệ tương hỗ và gắn kết giữa tâm với thân, một quy luật của tâm đã được con người chúng ta phát hiện và khai thác để chữa bệnh, luyện dưỡng sinh, phát huy các khả năng của thân ( thiền động, yoga, luyện các phép thần thông, luyện khí công, pháp luân công, thiền chữa bệnh của thân … )

4- Có những vọng tưởng, trạng thái  bất chợt xuất hiện rồi lại mất đi ( trực giác hay còn gọi là giác quan thứ sáu là một phần nhỏ trong quy luật này của Tâm ).

Đây là một điểm đặc biệt của tâm. Nó như một luồng sinh khí từ suối nguồn xâm nhập vào tâm ta từng phút giây, từng bối cảnh thay đổi cảm nhận được từ các giác quan ( sát na ), nó hòa quện cùng những dữ liệu được đưa đến từ các giác quan hoặc tự phát ra để dẫn hướng đến từng suy nghĩ, hành động của chúng ta. Luồng sinh khí này đưa đẩy cuộc đời chúng ta đến những cảnh giới khác nhau, mở ra những chân trời tốt đẹp mới hoặc vùi dập chúng ta xuống nhiều tầng địa ngục. 

Suối nguồn này chính là những chủ thể tạo ra sự biến đổi không ngừng của tâm. ( Chính những luồng sinh khí này đã dẫn dắt tôi viết ra những dòng chữ mà quý vị đang đọc đó ).

5- Ghi nhận những biến đổi của Tâm một cách tự nhiên và chủ động. Khi ghi nhận một cách chủ động sẽ dẫn đến trạng thái tĩnh lặng của tâm ( điều phục và định tâm ).

Đây là một quy luật tối quan trọng của tâm để giúp chúng ta tiến tới một cảnh giới cao hơn và có thể gọi là giải thoát vậy.

Thân và Tâm như thế nào khi con người được giải thoát ( giác ngộ hay đắc đạo )

Với nhà Phật, các giáo lý không nói nhiều đến thân trong thiền định lúc chứng đắc ( đạt cảnh giới giải thoát ). Có một số nội dung về quán thân, chúng ta cảm nhận được nội dung chủ yếu quán về quá trình sinh, lão, bệnh, tử, quán về các bộ phận cấu tạo lên cơ thể ( nhưng mơ hồ do thời đó con người chưa biết nhiều đến các bộ phận, cấu tạo của cơ thể ). Quán cảm thọ về các cảm nhận về thân của tâm: nóng, lạnh, run, mỏi mệt, đau đớn, ngứa, xót … 

Tất cả những nội dung trên gọi chung là pháp quán thân vô thường. 

Đã là con người thì thân xác vô thường, vẫn phải tuân theo quy luật của tự nhiên đó là sinh lão bệnh tử. Kể cả những con người tu hành đắc đạo, những người đã giác ngộ hay như Phật Thích Ca cũng vậy.  Vậy nên giáo lý nhà Phật chỉ coi thân là ngôi nhà chứa tâm trong cõi tạm. Sự giải thoát mà Phật nói đến trong những thuyết giảng của mình chỉ về phần Tâm trong con người. 

Vậy là khi con người đắc đạo ( giải thoát ) thì thân xác vẫn bị hủy diệt theo thời gian với quy luật tự nhiên. Còn Tâm chúng ta đã được giải thoát, đoạn diệt khỏi khổ đau, không bị luân hồi trói buộc và sẽ tồn tại ở một nơi nào đó, một thế giới mà người thường chúng ta chưa bao giờ thấy, cảm nhận được. 


Sao mà phải giải thoát và giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi cái gì ? 

Điều cốt tủy của đạo Phật là nhận diện được cái khổ, nguyên nhân của khổ, cách cái khổ vận hành, cách diệt khổ ( thoát khổ- hay còn gọi là giải thoát ). Quy luật về khổ có sẵn trong thế giới loài người và muôn vật, Phật là người đã tìm ra và diễn giải cho chúng ta biết, hướng dẫn cho chúng ta cách để con người chúng ta giải thoát khỏi nó. 

Cuộc sống con người chúng ta có khổ có vui. Vui là sung sướng tấm thân, đạt được những mong muốn về công danh, tài lộc, yêu đương, … . Khổ là ốm đau, già bệnh, chết đi, hay buồn sầu bi ai, thù hận ghen ghét, thất bại không toại nguyện ước muốn,  … . 

Vui lại là nguyên nhân của khổ bởi điều vui ta mong muốn khi không đạt được sẽ sinh ra khổ. Ví dụ: mong muốn luôn khoẻ mà bệnh tật ập đến sẽ thấy khổ buồn; mong muốn công việc thành công khi gặp thất bại sẽ thất vọng, buồn; khi muốn người khác nghe theo mình mà họ không nghe thì sinh tức giận …

Một chuỗi những điều bất toại nguyện trong khi mong muốn của con người không ngừng gia tăng do tâm tham luôn phát sinh và dẫn dắt. 

Sao mà phải giải thoát ? Bởi con người chúng ta bị vùi dập, trói buộc trong khổ đau. Thoát khỏi khổ đau là chúng ta tiến tới giải thoát, mọi ràng buộc trong bể trầm luân được cởi trói cho cuộc sống thư thái. 

Vậy khi mà tâm cứ chồng chất thêm những hỉ nộ ái ố của đời thì thì sao để thoát ra đây. Thân cũng chất chồng thêm sự già đi, luyến ái sâu thêm, đau yếu, bệnh tật xâm nhập … làm sao không khổ đây. Phật ngộ ra con đường đó, con đường của giới - định - tuệ. Thực hành thiền và giữ giới ( tránh tham dục, sân si ). 


…………. ( còn tiếp )




17 tháng 1 2016

Học thuyết kinh lạc

I. ĐỊNH NGHĨA
   Kinh lạc là tên gọi chung của kinh mạch và lạc mạch trong cơ thể. Kinh là đường thẳng, là cái khung của hệ kinh lạc và đi ở sâu. Lạc là đường ngang, là cái lưới, từ kinh lạc chia ra như mạng lưới đến khắp mọi nơi và đi ở nông. Kinh lạc phân bố ra toàn thân, là con đường vận hành của âm dương, khí huyết, tân dịch, khiến cho con người từ ngũ tạng, lục phủ, cân, mạch, cơ nhục, xương…kết thành một chỉnh thể thống nhất. 
Trên đường đi của kinh lạc có tập trung rất nhiều các huyệt vị, ngoài ra có một số huyệt vị không nằm trên các đường kinh lạc.

II. CẤU TẠO CỦA HỆ KINH LẠC
2.1. Kinh mạch và lạc mạch
2.1.1. Mười hai kinh mạch chính
    Tay
          - 3 kinh âm
            + Thủ thái ấm phế có 11 huyệt mỗi bên gồm: Trung phủ, vân phủ, thiên phủ, hiệp bạch, xích trạch, khổng tối, liệt khuyết, kinh cừ, thái uyên, ngư tế, thiếu thương
            + Thủ thiếu âm tâm có 9 huyệt mỗi bên, gồm: cực tuyền, thanh linh, thiếu hải, linh đạo, thông lý, âm khích, thần môn, thiếu phủ, thiếu xung.
            + Thủ quyết âm tâm bào lạc có 9 huyệt mỗi bên, gồm: thiên trì, thiên tuyền, khúc trạch, khích môn, gian sử, nội quan, đại lăng tuyền, lao cung, trung xung.
           - 3 kinh dương
            + Thủ thái dương tiểu trưởng có 19 huyệt mỗi bên, gồm: thiếu trạch, tiền cốc, hậu khê, uyển cốt, dương cốc, dưỡng lão, chi chính, tiểu hải, kiên trinh, nhu du, thiên tông, bỉnh phong, khúc viên, kiên ngoại du, kiên trung du, thiên song, thiên dung, quyền liêu, thính cung.
            + Thủ thiếu dương tam tiêu có 23 huyệt mỗi bên, gồm: quan xung, dịch môn, trung chữ, dương trì, ngoại quan, chi câu, hội tông, tứ độc, thiên tỉnh, thanh lãnh uyên, tiêu lạc, nhu hội, kiên liêu, thiên liêu, thiên dũ, ế phong, khế mạch, lư tức, giác tôn, nhĩ môn, hòa liêu, ty trúc không.
            + Thủ dương minh đại trường có 20 huyệt mỗi bên, gồm: Thương dương, nhị gian, tam gian, hợp cốc, dương khê, thiên lịch, ôn lưu, hạ liêm, thượng liêm, thủ tam lý, khúc trì, trửu liêu, ngũ lý, tý nhu, kiên ngung, cự cốt, thiên đỉnh, phù đột, hòa liêu, nghinh hương.
    Chân:  
        - 3 kinh âm
            + Túc thái âm tỳ có 21 huyệt mỗi bên, gồm: ẩn bạch, đại dộ, thái bạch, công tôn, thương khâu, tam âm giao, lậu cốc, địa cơ, âm lăng tuyền, huyết hải, cơ môn, xung môn, phủ xá, phúc kết, đại hoành, phúc ai, thực đậu, thiên khê, hung hương, chi vinh, đại bao.
            + Túc thiếu âm thận có 27 huyệt mỗi bên, gồm: dũng tuyền, nhiên cốc, thái khê, đại chung, thủy tuyền, chiếu hải, phục lưu, giao tín, trúc tân, âm cốc, hoàng cốt, đại hách, khí huyệt, tứ mãn, trung chú, hoang du, thương khúc, thạch quan, âm đô, thông cốc, u môn, bộ lang, thần phong, linh khư, thần tàng, quắc trung, du phủ.
            + Túc quyết âm can có 14 huyệt mỗi bên, gồm: đại đôn, hành gian, thái xung, trung phong, lãi câu, trung đô, tất quan, khúc tuyền, âm bao, ngũ lý, âm liêm, cấp mạch, chương môn, kỳ môn.
        - 3 kinh dương
            + Túc thái dương bàng quang có 67 huyệt mỗi bên, gồm: tinh minh, toản trúc, mi xung, khúc sai, ngũ xứ, thừa quang, thông thiên, lạc khước, ngọc chẩm, thiên trụ, đại trữ, phong môn, phế du, quyết âm du, tâm du, đốc du, cách du, can du, đởm du, tỳ du, vị du, tam tiêu du, thận du, khí hải du, quan nguyên du, tiểu trường du, bàng quang du, trung lữ du, bạch hoàn du, thương liêu, thứ liêu, trung liêu, hạ liêu, hội dương, thừa phù, ân môn, phù khích, ủy dương, ủy trung, phụ phân, phách hộ, thần đường, y hy, cách quan, hồn môn, dương cường, ý xá, vị thương, hoang môn, chí thất, bào hoang, trật biên, hợp dương, thừa cân, thừa sơn, phi dương, phụ dương, côn lôn, bộc tham, thân mạch, kim môn, kinh cốt, thúc cốt, thông cốc, chí âm.
            + Túc thiếu dương đởm có 44 huyệt mỗi bên, gồm: đồng tử liêu, thính hội, thượng quan, hàm yếm, huyền lư, huyền ly, khúc tần, suất cốc, thiên xung, phù bạch, khiếu âm, hoàn cốt, bản thần, dương bạch, lâm khấp, mục song, chính đỉnh, thừa linh, não không, phong trì, kiên tỉnh, uyên dịch, triếp cân, nhật nguyệt, kinh môn, đới mạch, ngũ khu, duy đạo, cự liêu, hoàn khiêu, phong thị, trung độc, dương quan, dương lăng tuyền, dương giao, ngoại khâu, quang mình, dương phụ, huyền chung, khâu khư, túc lâm khấp, địa ngũ hội, hiệp khê, túc khiếu âm.
            + Túc dương minh vị có 45 huyệt mỗi bên, gồm: thừa khấp, tứ bạch, cự liêu, địa thương, đại nghinh, giáp xa, hạ quan, đầu duy, nhân nghinh, thủy đột, khí xá, khuyết bổn, khí hộ, khố phòng, ốc ế, ưng song, nhũ trung, nhũ căn, bất dung, thừa mãn, lương môn, quan môn, thái ất, hoạt nhục môn, thiên khu, ngoại lăng, địa cơ, thủy đạo, quy lai, khí xung, bễ quan, phục thỏ, âm thị, lương khâu, độc tỵ, túc tam lý, thượng cư hư, điều khẩu, hạ cư hư, phong long, giải khê, xung dương, hãm cốc, nội đình, lệ đoài.
BIỂU TÓM TẮT 12 KINH CHÍNH
Kinh chính
Đường tuần hành
Biểu hiện bệnh lý
Tác dụng chữa bệnh
Kinh Bệnh
Tạng Phủ Bệnh Chứng
Thủ Thái âm PHẾ KINH (Mỗi bên 11 huyệt)
Mặt trong, bờ trước của tay, từ hố nách ngực chạy ra ngón tay chiều ly tâm
Đau nơi kinh đi qua, đau nhiều thì tay bắt chéo ôm ngực, mắt tối sầm, tim đập loạn
Ngực đầy tức, ho, khó thở, khát, tiểu gắt, nước tiểu vàng, gang tay nóng, cảm phong hàn thì có sốt và gai rét
Sốt bệnh ở ngực, phế, họng, thanh quản, tiểu ít, khó hành khí hoạt huyết, khí huyết ứ trệ
Thủ Dương minh ĐẠI TRƯỜNG (Mỗi bên có 20 huyệt)
Mặt ngoài, bờ trước của tay, từ ngón trỏ chạy lên mặt, chiều hướng tâm
Đau, sưng nơi kinh đi qua, ngón trỏ và cái khó vận động. Tà khí thịnh thì sưng đau
Mắt vàng, miệng khô họng, chảy máu cam, bụng đau, sôi, nếu hàn : tiêu chảy. Nếu nhiệt : tiêu nhão, dính, táo bón. Tà thịnh : sốt phát cuồng
Sốt, bệnh ở đầu, mặt, mắt, mũi, miệng, tai, họng, mắt, bao tử, ruột
Túc Dương minh VỊ KINH (Mỗi bên có 45 huyệt)
Mặt ngoài, giữa chân, từ dưới mắt xuống chân theo chiều ly tâm
Sưng đau nơi kinh đi qua, chảy máu cam, miệng, môi mọc mụn, miệng méo, chân teo lạnh, tà khí thịnh : sốt cao, vã mồ hôi, có thể cuồng
Vị nhiệt : ăn nhiều, nước tiểu vàng, nóng nẩy trong người, có thể phát cuồng khát nước.
Vị hàn : đầy bụng, ăn ít
Sốt cao, bệnh ở đầu, mặt, mắt, mũi, răng, họng, bao tử, ruột, bệnh tâm thần, bệnh thần kinh
túc thái âm tỳ kinh (mỗi bên có 21 huyệt)
mặt trong, bờ trước chân, từ ngón chân cái lên ngực, theo chiều hướng tâm
người ê ẩm, nặng nề, da vàng, lưỡi cứng đau, mặt trong chi dưới phù, cơ ở chân tay teo
bụng trên đau, đầy, ăn khó tiêu, nôn, nuốt khó, ỉa chảy, tiểu không thông
bệnh ở bụng trên, bao tử, ruột, bệnh sinh dục, tiết niệu
Thủ Thiếu âm TÂM KINH (Mỗi bên có 9 huyệt)
Mặt trong, bờ sau của tay, từ hố nách ngực ra ngón tay, theo chiều ly tâm
Đau nơi kinh đi qua, gan tay nóng hoặc lạnh, miệng khô, khát, mắt đau
Vùng tim đau, nấc khan, sườn ngực đau tức,
thực : phát cuồng
hư : hay sợ hãi
Bệnh ở tim, ngực, bệnh tâm thần
Thủ Thái dương TIỂU TRƯỜNG (Mỗi bên có 19 huyệt)
Mặt ngoài, bờ sau tay, từ ngón tay lên mặt, theo chiều hướng tâm
Đau sưng nơi kinh đi qua, điếc, mắt vàng, cổ gáy cứng đau
Bụng dưới đau trướng, đau lan ra thắt lưng, xiên xuống dịch hoàn, tiêu chảy, táo bón, bụng đau
Sốt, bệnh ở đầu gáy, cổ, mắt, tai, mũi, họng, bệnh tâm thần, thần kinh
Túc Thái dương BÀNG QUANG (Mỗi bên có 67 huyệt)
Mặt ngoài, bờ sau chân, từ ngón chân lên đầu mặt, theo chiều hướng tâm
Sốt, đau nơi kinh đi qua, mắt đỏ, chảy nước mắt, chảy máu cam, chảy nước mũi
Bụng dưới đau tức, đái dầm, đái không thông
Sốt, bệnh ở đầu gáy, mũi, mắt, thắt lưng, hậu môn, tạng phủ, tâm thần
Túc Thiếu âm THẬN KINH (Mỗi bên có 27 huyệt)
Mặt trong, bờ trong chân, từ chân lên ngực, theo chiều hướng tâm
Đau nơi kinh đi qua, miệng nóng, lưỡi khô, họng sưng, mặt trong chân lạnh, lòng bàn chân nóng
Phù, đái không thông, ho ra máu, suyễn, thích nằm, mắt hoa, da xạm, hồi hộp, tiểu chảy lúc gần sáng
Bệnh ở bụng dưới, sinh dục, tiết niệu, ruột, bệnh ở họng, phế
Thủ Quyết âm TÂM BÀO (Mỗi bên có 9 huyệt)
Mặt trong, giữa tay, từ nách ngực ra ngón tay, theo chiều ly tâm
Mặt đỏ, nách sưng, khuỷ tay co quắp, gang tay nóng
Vùng tim đau, bồn chồn, ngực sườn tức, tim đập mạnh, cuồng, nói sảng, hôn mê
Sốt, bệnh ở ngực, tim, bao tử, bệnh tâm thần
Thủ Thái dương TAM TIÊU (Mỗi bên có 23 huyệt)
Mặt ngoài, giữa tay, từ ngón tay lên đầu mặt,weo chiều hướng tâm
Đau sưng nơi kinh đi qua, tai ù, điếc, mặt đau đỏ, ngón tay thứ 4 khó cử động
Bụng đầy trướng, bụng dưới cứng, đái không thông, đái gắt, đái són, phù
Sốt, bệnh ở đầu, thái dương, mắt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, bệnh tâm thần
Túc Thiếu dương ĐỞM KINH (Mỗi bên có 44 huyệt)
Mặt ngoài, bờ trước chân, từ đầu xuống chân, theo chiều ly tâm
Đau sưng nơi kinh đi qua, sốt rét, điếc, lao hạch, phía ngoài bàn chân nóng, ngón chân thứ 4 khó vận động
Cạnh sườn đau, ngực đau, miệng đắng, nôn
Sốt, bệnh ở đầu, thái dương, mắt, tai, mũi, họng, ngực, sườn, bệnh tâm thần
Túc Quyết âm CAN KINH (Mỗi bên có 14 huyệt)
Mặt trong, bờ trong cẳng chân, từ ngón chân lên ngực, theo chiều hướng tâm
Đau đầu, váng, mắt hoa nhìn không rõ, tai ù, sốt cao, co giật, đái khó, đái dầm
Ngực tức, nôn, nấc, bụng trên đau, da vàng, nuốt nghẹn, thoái vị, bụng dưới đau, tiêu chảy
Bệnh ở mắt, hệ sinh dục, đường tiểu, bệnh ở bao tử, ruột, ngực, sườn
2.1.2. Tám kinh mạch phụ
        - Nhâm mạch có 24 huyệt, gồm: hội âm, khúc cốt, trung cực, quan nguyên, thạch môn, khí hải, âm giao, thần khuyết, thủy phân, hạ quản, kiến lý, trung quản, thượng khoản, cự khuyết, cưu vỹ, trung đỉnh, đản trung, ngọc đường, tử cung, hoa cái, toàn cơ, thiên đột, liêm tuyền, thừa tương. 
        - Đốc mạch có 28 huyệt, gồm: trường cường, yêu du, dương quan, mệnh môn, huyền khu, tích trung, trung khu, cân súc, chí dương, linh đài, thần đạo, thân chủ, đào đạo, đại chùy, á môn, phong phủ, não hộ, cường gian, hậu đỉnh, bách hội, tiền đình, tín hội, thượng tinh, tố liêu, nhân trung, đoài đoan, ngân giao.        
        - Xung mạch      
        - Đới mạch
        - Âm duy mạch
        - Dương duy mạch 
         - Âm kiểu mạch
         - Dương kiểu mạch
2.1.3. Kinh biệt, kinh cân, biệt lạc, tôn lạc, phủ lạc.
    - 12 kinh biệt đi ra từ 12 kinh chính
    - 12 kinh cân nối liền các đầu xương ở tứ chi không vào phủ phủ tạng.
    - 15 biệt lạc đi từ 14 đường kinh mạch biểu lý với nhau và một tổng lạc.
    - Tôn lạc: từ biệt lạc phân nhánh nhỏ.
    - Phù lạc: từu tôn lạc nổi ở ngoài da.
2.2. Huyệt
    Gồm 319 huyệt ở đường kinh chính, 52 huyệt ở 2 đường kinh phụ cộng là 371 huyệt nằm trên 14 đường kinh (nếu kể cả 2 bên là 319 x 2 + 52 = 690 huyệt) và khoản cách 200 huyệt ngoài đường kinh (hiện nay bên Trung Quốc đã tìm và đặt tên thêm nhiều huyệt nữa).
- Bát giao hội huyệt xem ở đây: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2015/05/bat-giao-hoi-huyet.html
- Bát huyệt hội xem ở đây http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2015/05/la-ten-goi-cua-8-huyet-co-tac-dung-tot.html
- Lục tổng huyệt xem ở đây: http://yhoccotruyenvn01.blogspot.com/2015/05/luc-tong-huyet.html
- Huyệt đặc hiệu
- Ngũ du huyệt
- Huyệt bồi bổ
2.3. Kinh khí và kinh huyết vận hành trong kinh lạc.
Ngoài tác dụng chung còn mang tính chất của đường kinh mà nó cư trú.

III. TÁC DỤNG CỦA HỆ THỐNG KINH LẠC
3.1. Về sinh lý
    - Hệ thống kinh lạc thông hành khí huyết trong các tổ chức của cơ thể chống ngoại tà bảo vệ cơ thể.
    - Hệ thống kinh lạc liên kết các tổ chức cơ thể (tạng, phủ, tứ chi, chín khiếu, cân mạch, xương, da…) có chức năng khác nhau thành một khối thống nhất.
3.2. Về mặt bệnh lý
    Khi công năng hoạt động cảu hệ kinh lạc bị trở ngại, gây kinh khí không thông suốt thì dễ bị ngoại tà xâm nhập và gây bệnh. Bệnh thường truyền từ ngoài vào trong, từ ngoài da cơ nhục vào tạng, tức là từ kinh mạch vào phủ tạng.
    Bệnh ở phụ tạng thường có những biểu hiện bệnh lý ở đường kinh mạch đi qua: vị nhiệt thì loét miệng, cơn đau ngực do co thắt động mạch vành thì đau ở tâm kinh…
3.3. Về chẩn đoán
    Kinh mạch nối liền với tạng phủ và có đường đi ở những vị trí nhất định cảu cơ thể. Căn cứ vào những thay đổi cảm giác (đau, tức, trướng), điện sinh vật trên đường đi cảu kinh mạch nười ta chẩn đoán bệnh thuộc tạng phủ nào đó gọi là kinh lạc chẩn. Thí dụ: Nhức đầu vùng đỉnh do can, đau nửa bên đầu do đởm, đau sau gáy thuộc bàng quang…
    Ngoài ta người ta còn đo thông số về điện sinh vật của các tỉnh huyệt (huyệt tận cùng đầu chi cảu các kinh) hay nguyên huyệt (huyệt chính của một đường kinh) bằng máy đo kinh lạc để đánh giá được tình trạng hư thực của khí huyết (huyết tay trái, khí tay phải) hoặc tình trạng hư thực cảu phủ so với số liệu trung bình hoặc so hai bên cơ thể với nhau…
3.4. Về chữa bệnh
    Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất vào phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu, xoa bóp và thuốc.
    Châm cứu và xoa bóp đã thành một phương pháp chữa bệnh độc đáo đạt nhiều thành tựu to lớn, sẽ được giới thiệu kỹ trong các phần sau.
    Học thuyết kinh lạc chỉ đạo việc quy tác dụng của thuốc tương ứng với tạng, phủ hay đường kinh nào đó gọi là sự quy kinh của thuốc.
    Thí dụ:
    - Quế chi vào phế nên chữa ho, cảm mạo.
    - Ma hoàng vào phế nên chữa ho hen, vào bàng quang nên có tác dụng lợi niệu.


20 tháng 10 2015

Chữ KHÍ ( Hán ngữ ) hiểu theo đông y





.

  TMH Mạo muội quý vị tôi xin có chút phân tích về chữ KHÍTheo tôi thì khí ở đây  có hai loại đó là khí hậu thiên và khí tiên thiên.Cái khí hậu thiên này do các loại ngũ cốc tạo ra vậy nên có chữ MỄ ( hoặc các loại có lực, nhận thấy ) và được bao hàm trong chữ BAO ( tập hợp ). Khí tiên thiên là cái khí thống soái của sự sống, khởi nguyên cho sự sống và nó vi diệu, khó mà nắm bắt được như khí hậu thiên, nó được biểu trưng bằng chữ NGUYÊN đặt ở trên cùng trong chữ khí, có thể hiểu là nguyên khí. Cái mà chúng ta thường rất khó hình dung và khó định nghĩa nổi là cái nguyên khí này. 
( Trích đoạn tranh luận trên FB của TMH và mượn hình của bác Lý Thành Trung )

TMH: Ý đến là khí đến có thể hiểu như khi chúng ta tập trung ý nghĩ tới một nơi nào đó trên cơ thể thì cái KHÍ trong cơ thể chúng ta sẽ được huy động đến đó. Cái khí này có thể hình dung như là một hệ thống miễn dịch của cơ thể hay một năng lượng của cơ thể sống có khả năng hoá giải bệnh tật. Cái Tâm của chúng ta luôn lôi kéo cái ý của chúng ta theo bao thứ trong cuộc sống nên khi một số vị trí cơ thể bị đau do bệnh tật mà chúng ta ko nhận ra khiến cơ thể ko huy động khả năng tự chữa bệnh vậy nen bệnh càng nặng thêm đến lúc cảm thấy đau thực sự mới biết bị bệnh. Khi châm cứu hoặc chôn chỉ, bấm huyệt là chúng ta tác động vào bệnh nhân tạo đau ở vị trí liên quan đến bệnh khiến ý của họ tập trung đến vị trí đau bệnh, như vậy cái KHÍ của bản thân bệnh nhân sẽ được huy động đến để hoá giải bệnh tật vậy. Còn một cách khác để tập trung cái Ý của chúng ta cho Khí đến hoá giải bệnh tật, đó là thiền TỨ NIỆM XỨ
TP: Anh Ho Tran Minh cho em hỏi khí nó đi theo đường cố định 1 cách tự nhiên hay theo ý dẫn. Em thấy vòng nhâm đốc tiểu chu thiên có 2 cách dẫn xuôi và ngược. Xuôi có tác dụng gì và ngược tác dụng gì. Nếu đường tự nhiên cố định của nó là xuôi mà mình dẫn ngược thì khí sẽ theo ý mình hay theo đường tự nhiên.
TMH: Những điều này thú thực với Thanh Ph là sự kiểm nghiệm của bản thân chưa đạt để nói ra vậy, nhưng ở đây mình nói cái khí cũng không hẳn là những loại khí chạy trong các kinh mạch như chúng ta được nghiên cứu, được biết. Khi ý tập trung theo thiền TỨ NIỆM XỨ thì nó hoá giải bệnh tật theo thuyết nhân quả, điều này có lẽ vượt qua những thuyết phương đông mà chúng ta đã biết như âm dương, tạng tượng, ngũ hành, kinh mạch, dịch học ...
TP: Đông y nói khí dẫn huyết. Huyết thì đi theo đường hữu hình của hệ tuần hoàn. Khí thì đi theo 12 đường kinh. 2 đường này khác nhau hoàn toàn. Vậy khí dẫn huyết thế nào vậy chú Lý Thành Trung, anh Ho Tran Minh
TMH: Sao lại nói khí đi theo 12 đường kinh mà huyết đi theo hệ tuần hoàn vậy. Theo ngu ý của mình thì những thứ khí bạn nói ra thuộc khí hậu thiên, mà hiểu nôm na là khi máu đến phổi thì nó nhận khí ( o2), nhả co2, và chuyển khí đến các nơi trên cơ thể, vậy là khí lẫn với huyết trong hệ tuần hoàn. Và bộ máy vận hành hệ tuần hoàn này là quả tim đập đẩy và hút ( ngày xưa các cụ chưa để ý đến ). Còn sự vận hành của dịch ( bạch huyết, bạch cầu, hệ miễn dịch, ,... ) cũng có thể gọi là khí hậu thiên ( có cả một phần khí của ngũ cốc đây ) ... vận hành theo thẩm thấu, chênh lệch áp suất, chênh về điện cực, cơ chế tế bào thần kinh, hệ bạch huyết ... Vân vân vân....cái này thế giới còn đang nghiên cứu chưa hết mà. Còn cái khí các cụ nói là vệ khí, vinh khí thì nó trừu tượng và chúng ta không thể hiểu nôm na như một dạng vật chất thông thường được. Ví dụ như nó phải có đường để đi, phải có cái gì tác động, ...
TP:  Vâng cám ơn anh, có nhiều loại khí quá nên làm người học hay bị lẫn. Phải gặp minh sư giải thích kỹ mới hiểu được. Ví dụ nói đàn ông bàn tay trái điện dương tay phải điện âm thì 2 tay phải hút nhau nhưng thỉnh thoảng em lại thấy nó hút thỉnh thoảng lại thấy nó đẩy nhau mới lạ.
LTT:  bạn Thanh Ph à nếu hai tay của anh đẩy nhau là vì anh đang yêu ai rồi đó !vang tay ra để ôm người ấy vào lòng !điều này cũng đủ chứng minh răng điện của trái tim manh hơn điện của hai bàn tay !!
CPL: tóm lại một câu thôi bác ơi. khí to đến không có bên ngoài, nhỏ không có bên trong. em trích lại lời của các bậc tiền nhân thôi nhé.
 TMH: Chịu, ko hiểu ...
LTT:  bạn TP có câu hỏi mà Trung thấy rất hay và rất thú vị ;" Đông y nói khí dẫn huyết. Huyết thì đi theo đường hữu hình của hệ tuần hoàn. Khí thì đi theo 12 đường kinh. 2 đường này khác nhau hoàn toàn. Vậy khí dẫn huyết thế nào?"Trung chờ các cao nhân giải tỏa thắc mắc này !giả tỏa được thì mới gọi là hiểu sâu về kinh mạch chứ không phải là hiểu mơ hồ theo các sách xưa ! tuy rằng các sách xưa có nói sơ qua nhưng không giải thích được một cách tỷ mỷ!muốn giả thích được câu hỏi này chắc phải đăng thêm một bài khác !
TP: Dạ vâng cụ thể là vì trước đây cháu gặp 1 người đau ở vị trí gần huyệt xích trạch nên trong đầu tự đặt ra mấy khả năng: Kinh phế tắc khí tại huyệt xích trạch, hay huyết tắc ở vị trí đau đấy, điểm tắc của khí có luôn trùng với điểm tắc của huyết hay có thể không trùng vì kinh khí và huyết đi theo 2 đường khác nhau, nếu không trùng thì điểm đau gần huyệt xích trạch biết đâu không phải khí kinh phế tắc mà kinh đại trường tắc. Hồi đó chưa biết chú Lý Thành Trung để hỏi nên cứ làm lần lượt các khả năng hết thông khí rồi thông huyết mãi bệnh mới bớt hahaha.
LTT:  bạn làm thấy bớt là vì bạn làm đúng!nhưng cái đúng này chưa chắc đúng với cái lý thuyết của đông y !nhưng cái đúng này là đúng với sự cảm nhận của bạn !vì thế Trung rất tôn trọng lý thuyết của đông y cổ truyền nhưng Trung nghỉ rằng cũng còn nhiều chổ thiếu sót vì thế khi chúng ta hành nghề thì phải xem và nghe người bệnh như một người thầy chứ không thể ỷ mình mà theo sách khăng khăng áp dụng bất kể sự cảm nhận của bệnh nhân!
LTT: người xưa đã vạch ra cho chúng ta 12 đường kinh mạch thì mười hai đường kinh này sẽ được làm nền tảng để dựa vào đó để lý luận hay lập phát đồ trị liệu !cũng giống như con số 0 trong toán học không có nó thì không thế làm toán được !nhưng trên thực tế thì trong khấp cả cơ thế con người đâu lại không có khí và huyết?đâu có khí thì đó phải có huyết !như vậy chúng ta cũng phải hiểu rằng tuy có các mạch máu hữu hình rõ ràng nhưng trong các mạch cũng có khí và huyết luôn! cái này cũng như lý luận dương trong âm hay âm trong dương vậy đó!