....( Tiếp theo bài: Vô cực sinh Lưỡng nghi ) ...Thế
giới vật chất luôn vận động, biến đổi cũng như tư duy của loài người luôn phát triển, đổi mới…
Thế giới vật chất, sự vật, hiện tượng không dừng lại ở ngưỡng phân chia đơn giản thành hai phần khác biệt ở ý niệm lưỡng nghi ( khái niệm âm dương sơ khai ban đầu ), nó bắt đầu
đan xen, giao hòa và phối nhập rồi chia tách, biến hóa không ngừng … Từ
những hạt vật chất đơn giản ban đầu hay những mầm sống đơn giản nhất chúng bắt
đầu tác động, tiến hóa, chuyển hóa, dần dần tạo lên một thế giới vật chất đa
dạng muôn màu: chất lỏng đan xen chất rắn, chất khí hòa lẫn vào chất lỏng, khi
thì bay lên, lúc thì lắng xuống, lúc thì tối tăm khi lại sáng lòa, lúc thì nóng
chảy lúc lại lạnh đóng băng dày…
( mô phỏng lưỡng nghi đã biến hoá )
Sự biến chuyển ngày càng vi tế hơn, sáng
chuyển sang tối, nóng chuyển sang lạnh, rắn hòa nhập với lỏng, khí hòa dần vào
chất lỏng, chất này có trong lòng chất kia …
Tư
duy con người cũng tiến hóa, chuyển biến. Nhận thức và tư duy truyền lại qua
các thế hệ và phát triển một cách nhanh chóng. Từ việc phân định thế giới quanh
mình ra hai thái cực trong lưỡng nghi thì con người bắt đầu quan sát tỉ mỉ hơn, quan
sát sâu hơn và thậm chí là tác động vào vật quan sát để tìm hiểu, nắm bắt bản
chất sự vật, hiện tượng. Họ đã nhận thấy thế giới vật chất không chỉ chia ra
làm hai phần ( lưỡng nghi ) mà còn có những nấc trung gian ví như con người sinh ra thì có
thời gian sinh sống rồi chết đi, trong một ngày đêm thì ánh sáng và bong tối
được luân chuyển một cách dần dần, trong chất rắn cũng thấy có chất lỏng, hết
mưa rồi lại nắng, chất này tan dần, biến mất thì chất khác lại dần hình thành và
phát triển. Những thăng trầm, chuyển biến của xã hội loại người, những manh mún
sơ khai dần đến hưng thịnh, rực rỡ sau
đó thì sụp đổ lụi tàn rồi lại nhen nhóm gây dựng … cứ như vậy con người tồn tại
và phát triển, tiến hóa.
Qua
quá trình quan sát, khám phá một cách sâu hơn, tư duy con người đã nhận thấy sự
lồng chéo, đan xen của sự vật, hiện tượng, các quy luật bất biến của sự vật
hiện tượng như việc có sinh và có tử, có phát triển sẽ có lụi tàn và đặc biệt
họ đã nghiệm thấy những sự phát triển quá mức của sự vật, hiện tượng sẽ dẫn đến
sự thay đổi …Và một học thuyết đã ra đời đó là thuyết ÂM DƯƠNG ( mô phỏng cho học thuyết âm dương là thái cực đồ ) .
Trong đó, những khái niệm nguyên thủy mang
tính bất biến của học thuyết thật cô đọng, thâm sâu và huyền diệu mà muôn đời
sau loài người vẫn mải mê nghiên cứu nó, ứng dụng nó cho cuộc sống của mình
trên rất nhiều lĩnh vực.
Các quy luật cơ bản trong học thuyết ÂM DƯƠNG
1/ Âm Dương đối lập:
Âm dương là hai mặt đối lập nhưng trong một thể thống nhất của sự tồn tại của mọi sự vật hiện tượng.
Có ngày mới đến đêm, có sinh ra là có mất đi, có trên thì có dưới .....
2/ Âm Dương hỗ căn:
Âm Dương là hai phạm trù ẩn chứa trong mọi
sự vật hiện tượng, nó nương tựa nhau giúp cho sự vận động không ngừng và tồn
tại của các sự vật hiện tượng, khi Âm suy giảm thì Dương tăng, ngược lại khi
Dương suy giảm thì Âm tăng. Trong âm có dương, trong dương có âm. Hai hình thể
biểu trưng đan quyện tạo lên một hình tròn dầy biến hoá của Vũ trụ.
3/ Âm Dương tiêu trưởng:
Cái này dần được sinh ra và lớn lên thì
cái kia dần thoái trào và thu hẹp lại rồi mất đi.
Hãy hình dung ở vị trí cao nhất ( trên
nhất ) là Dương phát triển viên mãn ( Dương cực ) tương tự với vị trí thấp nhất
ứng với thái cực Âm cực đại, ở điểm này bắt đầu có sự hình thành của cực đối
lập. Có câu : Dương cực sinh Âm - Âm cực sinh Dương
4/ Âm Dương Bình hành:
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều ẩn chứa
hai mặt của Âm và Dương. Sự vận hoá đắp đổi không ngừng tạo lên vạn vật nơi Vũ
trụ. Quá trình biến hoá trong mọi sự vật luôn tiến về thế cân bằng Âm Dương.
Như hình tròn vô hướng luôn vận động không ngừng, nhưng Nội trong nó là hai
Thái cực Âm Dương luôn cân bằng: có tiêu thì có trưởng, có Dương cực sinh Âm
thì cũng có Âm cực sinh Dương, có trên thì cũng có dưới, có trái thời có phải
...
....................................................................................