7/7/15

KHÍ HUYẾT trong Y hải cầu nguyên của Hải Thượng Lãn ông


Y hải cầu nguyên ( Hải Thượng Lãn ông / Y tông tâm lĩnh ) 
Thiên:  KHÍ HUYẾT 

Khí làm hướng đạo cho huyết.

Huyết là ngọn của khí, khí là gốc của huyết.

Huyết là tinh của thủy cốc, lớp lớp hoá sinh ra, song thực tế là nó sinh hoa sở tỳ, thống quản ở Tâm, tàng trữ ở Can, gạn lọc ở Thận và tưới tắm cho toàn thân.

Thanh khí ở dưới thì sinh ra ỉa chảy, trọc khí ở trên thì sinh ra đầy trướng.

Khí không có thủy không hoá được, tinh không có khi không vận hành được.
( tuyên thông phế khí với thông điều thủy đạo là hai chủ tính của tạng phế và tạng thận liên quan đến nhau ).

Phế đưa khí ra, thận thu khí vào, cho nên phế chủ khí, thận là gốc của khí.

Khí huyết không điều hoà thì ngưng kết lại mà làm ung nhọt.

Người ta khi nằm thì huyết trở về can.

Khí không có huyết thì khí tán mà không có sự thống quản
Huyết mà không có khí thì huyết ngưng lại mà chẳng lưu thông.

Tỳ vị là cha của khí huyết, tâm thận là mẹ của khí huyết, can phế là nơi cư trú của khí huyết.

Khí huyết con người cũng nhu nguồn suối, nhiều thì chảy khắp, ít thì ưa trệ, cho nén khí thịnh thì không ứ trệ.

Vinh huyết hư thì tê dại
Vệ khí hư thi không cử động

Khí bị hư thì tê dại. huyết bị hư thì cứng đờ ( ngoài da bị đau là tê dại, trong gân không mềm dẻo là cứng đờ ).

Khí bị hư thì đau, huyết bị hư thì sưng. ( khí thuộc hỏa, hình thuộc huyết, đau thì tổn thương khí, sưng thì tổn thương huyết )

Huyết thực khí hư thì thể vóc dễ béo, khí thực huyết hư thì thể vóc dễ gầy.

Bệnh khát thường phát sinh ở huyết hư.

Trung khí không đầy đủ thì nước giải biến màu.

Khí thượng bộ không đầy đủ thi đầu ngả nghiêng, mắt bị lác.

Khí hư không liễm nạp được nguyên dương ở trung cung, huyết hư không tiếp nhận được thận hỏa ( Long hỏa ) ở hạ tiêu, đều là chứng nhiệt.

Khí thịnh mà người lạnh là do thương hàn, khí hư mà người nóng là do thương thử.

Huyết suy thì hình thể liệt yếu, huyết bại thi hình thể hủy hoại, cho nên xương cốt có chỗ nào hư yếu thì thấy ngay bại liệt một bên.

Huyết có thừa thì hay giận, huyết không đủ thi hay sợ.

Khí có thừa tức là hoả, khí không đủ tức là hàn.

Mửa thời hại khí, xổ thời hao huyết
Khí hư thì hồi hộp đánh trống ngực, huyết hư thì hay kinh sợ.

Trong huyết không có khi thì bệnh thấy buông xuôi rã rời, trong khí không có huyết thì bệnh thấy co quắp run giật.

Khí thực thì nhiệt, khí hư thì hàn.

Khí nhiều thì huyết dễ đưa lên, huyết ít thì hỏa dễ bốc  cháy.

Đại trường có huyết thì nhuận, mất huyết thì táo.

Bị mất huyết thi không có mồ hôi
Bị mất mồ hôi thì không có huyết.

Khí thoát thì mắt không sáng.

Huyết thoát thi sắc mặt trắng bợt mà không nhuần nhã. Khí hư thì sắc trắng bệch có vẻ trong và nổi gân trơ xương trông có vẻ hàn lạnh. Huyết hư thì sắc trắng khô có vẻ đục như màu thiếc, màu tro, có thể tưởng tượng là nhợt nhạt.

Khí hành thì huyết hành, dương vong thì âm cũng thoát, âm vong thì dương cũng bại.

Chính khí với tà khí không thể đứng chung nhau, phải có một thắng một bại.

Bách bệnh đều không nằm ngoài phạm vi âm dương khí huyết.













Không có nhận xét nào: