29/7/15

Sử lý ban đầu tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não Xin nhớ ba chữ: C.N.G. Bạn chỉ tốn vài phút để đọc mấy điều đơn giản dưới đây, mà có thể cứu được mạng người. Một chuyên viên điều trị nói rằng: nếu ông ta có thể đến với nạn nhân Tai biến mạch máu não trong vòng 3 tiếng đồng hồ, ông ta có thể hoàn toàn đảo ngược ảnh hưởng cuả tai biến…



Tai biến mạch máu não Xin nhớ ba chữ: C.N.G.
Bạn chỉ tốn vài phút để đọc mấy điều đơn giản dưới đây, mà có thể cứu được mạng người.
Một chuyên viên điều trị nói rằng: nếu ông ta có thể đến với nạn nhân Tai biến mạch máu não trong vòng 3 tiếng đồng hồ, ông ta có thể hoàn toàn đảo ngược ảnh hưởng cuả tai biến…

NHẬN DIỆN - TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO

Trong bữa tiệc BBQ, một người bạn bị mất thăng bằng suýt ngã, bà ta trấn an mọi người là bà không sao cả, chỉ bị trượt trên gạch và đôi giày mới… Vài người đã giúp phủi bụi cho bà (thay vi kêu xe cứu thương) và làm cho bà một đĩa thức ăn mới. Bà Ingrid tiếp tục cuộc vui cùng bạn bè cho đến hết buổi chiều.
Mọi người mới về đến nhà, thì nhận được điên thoại cuả chồng bà Ingrid, báo tin là vợ ông đã đuợc đưa vào bệnh viện lúc 6 giờ chiều, và đã qua đờí vì Tai biến mạch máu não trong bữa tiệc BBQ. Nếu có người biết cách nhận ra triệu chứng Tai biến mạch máu não, có lẽ bà Ingrid có thể vẫn còn sống với chúng ta hôm nay.
XÁC ĐỊNH - TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO

Hệ thần kinh não bộ cuả nạn nhân Tai biến mạch máu não, có thể bị tàn phá nhanh chóng và kinh khủng, khi những người chung quanh không phát hiện ra được các triệu chứng cuả Tai biến mạch máu não. Thực ra, một người bàng quang có thể nhận diện được Tai biến mạch máu não, bằng cách hỏi nạn nhân ba câu đơn giản:
C. N. G.
C. Yêu cầu người đó Cười
N. Yêu cầu người đó Nói
G. Yêu cầu người đó Giơ tay lên
Nếu người đó bị trở ngại bất cứ điều nào kể trên, bạn hãy gọi xe Cấp cứu ngay tức khắc.
Ghi chú: Còn một dấu hiệu khác về Tai biến mạch máu não là Lưỡi của nạn nhân bị Cong, hoặc bị Ngả về một bên. Đó cũng là triệu chứng cuả Tai biến mạch máu não. Nếu mỗi người nhận được Email này, và gởi đi cho 10 người, thì ít nhất có một mạng người được cứu sống.
Chỉ với một cây kim, ta có thể cứu được mạng người.
Kính thưa quí vị, có thể quí vị đã có đọc những dòng chữ này rồi, nhưng chúng tôi muốn trích dịch ra tiếng Việt Nam và phổ biến rộng rãi, trong hy vọng có thể cứu được mạng người trong cơn nguy cấp, khi chờ đợi được các chuyên viên Y-tế săn sóc.
Chỉ cần một ống tiêm thuốc (loại dùng xong rồi phế thải, bằng nhựa), hoặc một cây kim may, là chúng ta có thể cứu mạng một bệnh nhân đang bị chứng tai biến mạch máu não (stroke). Việc cứu chữa thật đơn giản và dễ dàng một cách lạ lùng, nhưng có thể mang đến những kết quả cũng không kém lạ lùng và hữu hiệu. Chúng ta chỉ cần một phút để đọc tài liệu này, và các điều ghi trong tài liệu quả là những hướng dẫn tuyệt vời.
Xin quí vị ghi nhớ hoặc lưu giữ tài liệu này để sẵn sàng áp dụng, vì biết đâu, một ngày nào đó, quí vị sẽ dùng đến để cứu sống mạng người.
Cô Irene Liu kể chuyện: “Cha tôi bị tê liệt và chết sau đó vì ông là nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não. Ước chi tôi biết được thủ thuật này từ trước. Khi tai biến mạch máu não xảy ra, tất cả những tia huyết quản nhỏ trong não bộ sẽ từ từ vỡ ra sau đó.”
Khi có bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chúng ta phải giữ bình tĩnh, đứng cuống quít. Điều quan trọng nhất là ĐỪNG BAO GIỜ DI CHUYỂN NẠN NHÂN, bất kỳ là họ đang bị nạn ở đâu. Vì nếu nạn nhân bị di chuyển, các tia huyết quản trong não bộ sẽ vỡ ra. Từ từ giúp bệnh nhân ngồi thẳng dậy, và chúng ta có thể bắt đầu công việc “rút máu”.
Nếu quí vị có sẵn một ống tiêm thuốc, thì tốt nhất, nếu không thì một cây kim may, hay một cây kim gúc, cũng có thể giúp chúng ta được.

1- Trước hết, chúng ta hảy hơ nóng kim bằng lửa (bật lửa, đèn nến) để sát trùng, rồi dùng kim để chích trên mười đầu ngón tay.
2- Chúng ta không cần tìm một huyệt đặc biệt nào cả, chỉ cần chích vào đầu ngón tay, cách móng tay độ một ly (milimetre).
3- Chích kim vào cho đến khi có máu rỉ ra.
4- Nếu máu không chảy, nên nặn đầu ngón tay cho đến khi thấy máu nhỏ giọt.
5- Khi máu đã chảy từ cả mười đầu ngón tay, thì chờ vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh dậy.
6- Nếu mồm bệnh nhân bị méo, thì chúng ta phải nắm hai (lổ) tai của bệnh nhân kéo mạnh, cho đến khi hai tai đều ửng màu đỏ.
7- Châm vào dái tai (ear lobe) hai mũi mỗi bên cho đến khi máu nhỏ giọt từ mỗi dái tai. Sau vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh lại. Chúng ta hãy kiên tâm chờ cho đến khi bệnh nhân hoàn toàn hồi tỉnh và không có một triệu chứng nào khác thường mới mang bệnh nhân đến bệnh viện.

Vì nếu nạn nhân được chuyên chở vào bệnh viện sớm hơn. Có thể những dằn sóc của xe cứu thương sẽ làm cho các mao quản (capillaries) trong não bộ bị vỡ ra. Nếu sau khi đó mà họ còn có thể đi đứng được, thì đúng là do phúc đức của Tổ Tiên họ.

Cô Liu nói tiếp: “Tôi học cách cứu chữa qua cách làm xuất huyết này từ một Đông y tên Hà Bảo Định (Ha Bu-Ting). Ngoài ra, tôi còn có cơ hội áp dụng phương pháp này nữa. Vì thế nên tôi khẳng định là phương pháp hữu hiệu 100%. Năm 1979, tôi đang dạy tại Đai học Fung-Gaap tại Đài Trung. Một buổi trưa nọ, tôi đang giảng bài trong lớp, thì một giáo sư khác chạy sổ vào lớp học của tôi, vừa thở vừa nói ‘Cô Liu, đến gấp dùm, ông Giám sự của chúng ta đang bị tai biến mạch máu não’.
Tôi chạy lên lầu 3 ngay tức thì và thấy ông Giám sự của chúng tôi là Trần Phúc Tiên, mặt mày nhợt nhạt, tiếng nói ngọng nghịu, và mồm thì méo xệch qua một bên, ông hội đủ tất cả những triệu chứng của một người đang bị tai biến mạch máu não. Tôi bảo một người sinh viên đang thực tập tại Đại học, đến Dược phòng bên ngoài mua cho tôi một ống tiêm, và dùng kim tiêm để châm đầu mười ngón tay của ông Trần, cho đến khi mỗi đầu ngón tay có một giọt máu cỡ hạt đậu. Sau vài phút, mặt ông Trần đã nhuận sắc trở lại, và mắt ông cũng đã bắt đầu có thần. Nhưng mồm ông thì vẫn méo, nên tôi kéo
hai tai ông cho đến khi hai tai đều đỏ vì máu đọng, rồi châm vào mỗi bên dái tai hai mũi để hai giọt máu tươm ra.

Khi hai giọt máu hai bên dái tai được rỉ ra, một phép lạ đã xảy ra. Chỉ nội trong vòng từ 3 đến 5 phút, mồm ông ta đã từ từ trở lại hình dạng nguyên thủy, và tiếng nói của ông cũng trở lại bình thường. Chúng tôi để ông nghỉ ngơi một lúc, rồi rót cho ông một tách nước trà nóng rồi đưa ông đi đến bệnh viện Ngụy Hoa gần đó. Ông nghỉ ngơi tại bệnh viện một đêm, rồi hôm sau lại trở về nhiệm sở làm việc. Sau đó, mọi việc đều bình thường. Ông không có triệu chứng nào nguy hại sau đó. Trái lại, các nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não thường khó trở lại bình thường, vì các tia máu trong não bộ bị vỡ trong khi xe cứu thương di chuyển họ đến bệnh viện. Kết quả là không thể làm cho họ vãn hồi lại trạng thái cũ.”

Theo các thống kê, thì hiện nay, bệnh tai biến mạch máu não là nguyên nhân giết chết người ta hàng thứ nhì. Những người may mắn thì có thể sống còn, nhưng phải mang tật nguyền suốt đời. Đó là một tai họa khủng khiếp có thể xảy đến cho một cá nhân. Nếu chúng ta có thể ghi nhớ phương pháp cho xuất huyết trên đây, để có thể giúp đỡ những nạn nhân của căn bệnh quái ác này, để áp dụng tức thời trên nạn nhân, thì chỉ trong một thời gian ngắn, bệnh nhân sẽ tỉnh lại và được phục hồi 100%.
Chúng tôi hy vọng là quí vị có thể phổ biến tài liệu này để bệnh tai biến mạch máu não không còn là một căn bệnh giết người như hiện nay nữa.
(Sưu tầm)
Nha Khoa Sài Gòn B.H
link: http://www.nhakhoasaigon.vn/tin-noi-bo/196-kinh-nghiem-quy-bau-trong-xu-ly-tai-bien-mach-mau-nao.html

Cơn đau tim đến khi chỉ có một mình

Nguy cơ tử vong do các bệnh tim mạch vẫn xếp hàng đầu. Hơn nữa, số liệu thống kê cho thấy 80% trường hợp tử vong do nhồi máu cơ tim đều là khi người bệnh đang ở một mình. Thông tin sau đây sẽ giúp mọi người nhận biết được dấu hiệu của cơn nhồi máu cơ tim và những gì CẦN PHẢI làm để sống sót qua giây phút nguy hiểm.

Những dấu hiệu cảnh báo cơn nhồi máu cơ tim

Phân biệt giữa nhồi máu cơ tim, ngừng tim và rối loạn nhịp tim là điều quan trọng. Trong ngừng tim, có sự ngừng tuần hoàn đột ngột do tim không thể co bóp. Ngừng tim là khác với (nhưng có thể là do) nhồi máu cơ tim. Đó là tình trạng thiếu máu tới cơ tim. Rối loạn nhịp tim chủ yếu là do vấn đề điện tim, đôi khi có thể được điều trị bằng điện giải.
Cơn nhồi máu cơ tim xảy ra khi động mạch tim bị tắc dần dần dẫn đến hoại tử mô tim. Điều này dẫn đến cơn đau thắt ngực và lan ra cánh tay, lênhàm, và cần có sự can thiệp y tế ngay lập tức để giải quyết sự bít tắc bằng cách phẫu thuật cấp cứu hoặc thuốc tiêu cục máu đông. Một số triệu chứng có thể khởi phát chậm, cho phép bạn có thời gian gọi người giúp đỡ. Tuy nhiên có không ít trường hợp khiến người bệnh rơi vào trạng thái mất ý thức trong một khoảng thời gian ngắn. Vì vậy, việc kịp thời phản ứng để vượt qua giây phút nguy hiểm đó vô cùng quan trọng.

Kỹ thuật giúp bệnh nhân sống sót qua cơn đau tim

Lưu ý: Chỉ áp dụng cách sau đây khi chắc chắn không có sự giúp đỡ nào khác.
  • Bắt đầu ho mạnh ngay lập tức,
  • Hít sâu và ho mạnh mỗi hai giây,
  • Ho liên tục và mạnh,
  • Hít hở sâu trước mỗi lần ho,
  • Ho phải sâu và dài,
Tạo áp lực lên tim bằng cách ấn lên vùng tim nhằm giúp phục hồi nhịp tim bình thường. Thở sâu giúp đưa oxy tới phổi, động tác ho giúp ép chặt tim, tạo áp lực lên tim và do đó duy trì được tuần hoàn.
Trong lúc ấy, hãy gọi giúp đỡ.
Tiếp tục ho trong lúc gọi điện thoại.
Tất nhiên, cách tốt nhất để tăng khả năng sống sót trước cơn nhồi máu cơ tim là phòng tránh ngay từ ban đầu. Việc đạt được và duy trì sức khỏe tim mạch là điều cần thiết, bằng cách tích cực vận động, kiểm soát huyết áp, nồng độ cholesterol, cân nặng tốt, và không hút thuốc.
Thông tin này có thể cứu mạng những người bệnh tim cũng như người thân trong gia đình. Xin hãy chia sẻ!
Đại Hải
Link: https://daikynguyenvn.com/suc-khoe/phai-lam-gi-de-song-sot-neu-con-dau-tim-den-trong-luc-chi-co-mot-minh.html

27/7/15

Cây Mã Đề

Mã đề (hay còn gọi là xa tiền thảo).
Mã đề rất an toàn, dễ tìm, và có thể hữu dụng cho một loạt các vấn đề sức khỏe.
Mã đề là một loại cỏ dại phổ biến có nguồn gốc ở Châu Âu, nhưng đã lan rộng khắp nơi trên thế giới.
Mã đề khát khao du lịch. Tên thực vật của nó (Plantago) có nguồn gốc từ tiếng Latin dùng để chỉ bàn chân. Thật vậy, bất cứ nơi nào con người đi qua, là có cây mã đề mọc lên. Người Mỹ bản địa và người New Zealand đều gọi là cỏ dại “dấu chân người da trắng”, bởi vì nó mọc lên ở bất cứ nơi nào người châu Âu định cư.
Như một du khách dày dạn, mã đề thích lối mòn, và thường được tìm thấy ở những vết nứt của mặt đường. Trong khi cỏ thích đất tơi xốp, thoáng khí, mã đề lại chuộng mặt đất cứng và dày. Nó vượt trội trong việc lấy khoáng chất và chất dinh dưỡng từ nền đất cứng mà hầu hết các loài cây không thể xuyên qua.

( Cây Mã đề trồng trên sân thượng nhà tôi )

Loại thuốc đắp trực tiếp

Mã đề chứa một chất làm se với lực hút mạnh mẽ, đó là lý do tại sao nó thường được sử dụng để hút những mảnh vụn, chất độc, và thậm chí là mảnh thủy tinh nhỏ ra khỏi da. Mã đề cũng được sử dụng cho các vết cắn của muỗi, chó, rắn và các sinh vật có nọc độc khác. Loài cây này chứa một chất hóa học gọi là aucubin, đã được chứng minh trong các nghiên cứu có tác dụng chống độc rất hiệu nghiệm và bảo vệ gan.
Hãy nghĩ đến mã đề khi bị côn trùng đốt, ngứa, hoặc mẩn đỏ trên da. Nó được Cục quản lý thảo dược của Đức Commission E chấp nhận cho trường hợp viêm da tại chỗ.
Thuốc bôi mã đề rất tốt, nhưng cách đơn giản nhất để sử dụng loại thảo dược này là nhai rồi đắp.
Nhai một vài phút làm phá vỡ chất xơ của lá, để hóa chất hấp thụ vào da tốt hơn. Nó nghe có vẻ không hợp vệ sinh, nhưng phương pháp này đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ để chữa bệnh (và thậm chí khử trùng) các vết thương nhỏ. Nó cũng có thể loại bỏ cơn đau và nọc độc của các loài cây khác như cây tầm ma hay cây thường xuân độc.
Giữ thuốc đắp ở vết thương năm đến mười lăm phút để giảm tấy đỏ, đau và sưng. Thoa lại bốn hoặc năm lần một ngày nếu cần thiết.

Trà mã đề

Trà mã đề là một thức uống tuyệt vời chữa ho. Nó giúp long đờm, giảm kích ứng phổi, và được sự chấp thuận bởi Commission E trong điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp trên.
Các thử nghiệm lâm sàng ở Bulgaria hỗ trợ sử dụng mã đề cho viêm phế quản mãn tính. Một nghiên cứu của Đức phát hiện ra rằng tính dịu của mã đề đặc biệt thích hợp cho ho ở trẻ em.
Để làm trà, hãy đun nhỏ lửa bốn đến năm lá tươi (hoặc một muỗng canh lá khô) trong một cốc nước khoảng 20 phút. Hương vị rất nhẹ nhàng, bạn cũng có thể thêm chanh và mật ong nếu muốn. Ngoài ra, mã đề còn được nấu cùng một số loài cây khác như mía lau, rễ tranh, râu bắp, lá dứa… để làm nước mát giải nhiệt.
Trà mã đề cũng hữu ích trong các trường hợp khác, bao gồm viêm ruột, kích thích ruột, nhiễm trùng đường tiết niệu, nhiễm độc, viêm loét, đau răng và tiêu chảy.

Sa-lát mã đề

Mã đề rất bổ dưỡng. Lá cây chứa beta carotene, canxi, và vitamin A, B, C, và K. Tuy nhiên, chúng nhiều xơ hơn so với rau diếp hoặc rau bina, vì vậy bạn chỉ có thể trộn một vài lá vào món rau. Chọn lá nhỏ, non để có hương vị dịu nhẹ và ít xơ hơn.
Tránh những lá mọc gần ống xả khói xe hơi, hoặc có thể bị tiếp xúc với hóa chất diệt cỏ. Tìm kiếm những cây không bị ô nhiễm bởi nước tiểu động vật hoặc chất thải khác.

Những điểm thú vị

Vào thời kỳ của người Anglo-Saxons thế kỷ thứ 5 tại Anh, quê hương của mã đề, loài cỏ này là một trong chín loại thảo mộc thiêng liêng. Người ta đã làm bánh mì từ hạt mã đề, rất giàu axit béo omega-3.
Thời trung cổ châu Âu, Giáo Hội Công Giáo cấm việc sử dụng nhiều loại thảo dược, nhưng mã đề không bị cấm. Bởi loài cây được coi là biểu tượng con đường mòn của những người tìm kiếm Chúa Kitô.

Mã đề cũng được sử dụng như một loại thảo dược ở Trung Quốc, và được gọi là xa tiền thảo: “loài cỏ mọc trước cỗ xe” bởi vì nó thường mọc dọc những con đường mòn.
Các nhà thảo mộc Trung Hoa nhận ra rằng mã đề có rất nhiều hạt giống, do đó, họ coi nó như một phương thuốc cho khả năng sinh sản của nam giới. Các hạt giống cũng được sử dụng trong Trung y để chữa máu trong nước tiểu. 
Theo đông y, đông dược thì vị thuốc từ hạt mã đề gọi là xa tiền tử ( là vị thuốc xếp trong nhóm thuốc lợi niệu  ). Lưu ý tính lợi niệu của mã đề ( phần cây, lá, rễ gọi là xa tiền thảo có tính lợi niệu và thường dùng kèm với một số vị khác để thanh nhiệt, giải độc. Phần hạt gọi là xa tiền tử tính lợi niệu mạnh hơn ). Chú ý, không bị thấp nhiệt thì không nên dùng hoặc dùng hạn chế, không nên dùng thường xuyên (TMH)
Hạt từ một loại cây thuộc họ mã đề là psyllium thường được sử dụng như thuốc nhuận tràng. Nó là thành phần chính của thuốc Metamucil.
Mã đề đã được đề cập trong ba vở kịch của Shakespeare. Trong đó, nổi tiếng nhất là vở “Romeo và Juliet”, khi Romeo bảo Benvolio sử dụng lá mã đề để chữa lành vết thương trên chân.
Người Mỹ bản địa công nhận giá trị chữa bệnh của mã đề ngay sau khi nó đến Thế giới mới. Ngoài việc dùng chữa ho, vết thương, và rắn cắn, mã đề cũng là một phương thuốc chữa bệnh liệt Bell, theo nhà thảo dược Matthew Wood.
Dạng pha chế của mã đề được sử dụng cho đau tai và đau răng, cũng như trầm cảm và lo lắng gây ra bởi chứng nghiện nicotine.
Nghiên cứu sơ bộ cho thấy mã đề cũng có thể hỗ trợ điều trị bệnh ung thư. Một nghiên cứu năm 2003 của Tạp chí Y học Trung Hoa của Mỹ nhận thấy chiết xuất từ nước lá mã đề đun nóng sở hữu “hoạt động ức chế đáng kể” về ung thư hạch, ung thư biểu mô (bàng quang, xương, cổ tử cung, thận, phổi và dạ dày) và nhiễm herpes (nhiễm khuẩn da cấp tính).
Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Ethnopharmacology năm 2003 cho thấy “flavonoids của mã đề có thể ức chế mạnh mẽ sự gia tăng các dòng tế bào ung thư ở con người”.
Theo Theepochtimes.com
An Nhiên biên dịch

24/7/15

Bài ca thuốc trừ đàm



ĐÔNG DƯỢC CA
Bài ca thuốc trừ đàm

Lời thơ:
Thanh thiên thường ngưu côn trúc trúc
Ôn bán bạch hạnh tạo cát la

Diễn giải:
Thanh phế trừ đàm: thiên trúc hoàng, thường sơn, ngưu hoàng, côn bố, trúc lịch, trúc nhự
Ôn phế trừ đàm: bán hạ chế, bạch quả, hạnh nhân, tạo giác, cát cánh, la bạc tử 
( Viết bởi Trần Minh Hộ năm Ất Mùi tại thành phố Hà Nội, quận Hoàng Mai, thôn Kim Văn ) 



Bài ca thuốc tiêu hóa, nhuận tràng và chỉ tả




ĐÔNG DƯỢC CA
Thuốc tiêu hóa
Thuốc nhuận tràng
Thuốc chỉ tả
Lời thơ:
Tiêu hóa sơn thần kê mạch cốc
Nhuận tràng ma nhân mật minh thanh
Chỉ tả ô mai lựu phiên nương
Diễn giải:
Tiêu hóa: Sơn tra, thần khúc, nội kim, mạch nha, cốc nha
Nhuận tràng: ma nhân, mật ong, thảo quyết minh ( muồng trâu ), thanh phong đằng ( mơ tam thể )
Chỉ tả: ô mai, thạch lựu bì, phiên thạch lựu ( búp ổi ), đào kim nương ( nụ cây sim )



13/7/15

Cam ôn trị đại nhiệt


Tại sao nói " dùng thuốc hàn để trị bệnh nhiệt " rồi lại nói " cam ôn trị đại nhiệt " ?
Nguyên lý cho hai pháp chữa trên thật rõ ràng, sáng tỏ khi chúng ta đọc và luận thiên THUỶ HOẢ trong tập Y HẢI CẦU NGUYÊN của Lê Hữu Trác.



Nhiệt sinh ra do hỏa bốc

Hỏa gồm có dương hỏa và âm hoả

Dương hỏa là hỏa hỏa hữu hình của hậu thiên, và là thực hỏa, gồm: tâm quân hỏa, hỏa của can ( lôi hỏa ), hỏa của ngũ tạng ( tướng hỏa của các tạng, trừ tạng thận ), hỏa của tam tiêu, các chứng uất gây hoả ( huyết uất, thấp uất, khí uất ... ). Khi dương hỏa thịnh thì phải tả, không thể dung túng thành thế cháy cả đồng nội. Dùng pháp chính trị ( dùng thuốc hàn để trị nhiệt ).

Âm hỏa là hỏa hỏa vô hình của tiên thiên, và là hư hoả, gồm: mệnh môn quân hỏa ( Long hỏa hay còn gọi là chân dương ), thận hỏa ( Tướng hỏa của tạng thận hay là thiếu hỏa hay còn gọi là chân hỏa ) . Âm hỏa làm căn bản cho sinh mệnh, yên ổn cho thần minh, là ông tổ sinh ra khí ( nó là vật quý báu cho sinh mạng sao có thể tàn phá ? LHT ). Khi âm hỏa bốc lên là nó bị mất vị trí do mất cân bằng thủy hỏa, âm dương thì gọi là Tráng hỏa. Dùng pháp tòng trị ( bồi bổ và thu liễm dẫn nó về nguyên chỗ vậy nên dùng thuốc nhiệt để trị nhiệt và có câu: cam ôn trừ đại nhiệt ). Vị thuốc cam ôn như nhân sâm, hoàng kỳ, vị thuốc dẫn hỏa quy nguyên như phụ tử, nhục quế.
Đại nhiệt ở đây là bệnh nhiệt đã ở cái thế hỏa hữu hình và hỏa vô hình đồng phát tác. Quá trình phát triển bệnh có thể từ hỏa hữu hình phát tác làm mất cân bằng thủy hỏa khiến hoả vô hình ( Long hỏa hoặc thiếu hỏa ) mất vị trí và bốc lên.
Hải Thượng Lãn Ông từng viết ở điều 13 trong thiên Thuỷ Hoả của tập Y Hải cầu nguyên rằng: Hoả hữu hình không nên dung túng, hỏa vô hình không nên tàn phá.


Cây sả

Hầu như quanh nhà ở vùng nông thôn đều có trồng một số bụi sả để bình thường dùng làm gia vị và dùng để xông giải cảm, diệt muỗi quanh nhà… sả còn nhiều tác dụng khác mà chúng ta chưa biết đến, trong đó có công dụng làm thuốc trị bệnh.

Giới thiệu đôi nét về cây sả

Cây sả còn được gọi là cỏ sả, hương mao, tên khoa học là Cymbopogon citratus (DC.) Stapf., thuộc họ Lúa (Poaceae).
Sả có vị đắng, tính ấm, mùi thơm, tác dụng đánh tan mùi hôi thối, trừ tà khí, giải cảm hàn thấp, nóng sốt, trị đau bụng lạnh, nôn mửa.
Người ta trồng sả để lấy thân rễ làm gia vị ăn sống, làm dưa, ướp thịt cá. Lá sả dùng nấu nước gội đầu, thường phối hợp với một số cây có tinh dầu khác (bạc hà, kinh giới, lá chanh, ngải cứu, lá buởi…) để nấu nước xông giải cảm.
Sả còn được dùng để cất tinh dầu. Củ sả chứa 1 – 2% tinh dầu màu vàng nhạt, thơm mùi chanh mà thành phần chủ yếu là citral (65 – 85%), geraniol (40%). Mỗi lần dùng 3 – 6 giọt pha trong sữa và nước thành nhũ tương, có tác dụng thông trung tiện, chống nôn, giảm đau, chữa đầy bụng, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy.
Dùng ngoài, tinh dầu sả phối hợp với nhiều loại tinh dầu khác để xoa bóp làm giảm đau xương, đau mình, nhức mỏi. Bôi trên da hoặc phun trong nhà, dầu sả là thuốc diệt muỗi, bọ chét.

Kinh nghiệm dùng sả điều trị một số bệnh

Ngăn ngừa ung thư: một số nghiên cứu cho thấy mỗi 100g sả chứa đến 24,205µg beta-carotene, những chất chống oxy hóa mạnh mẽ có thể giúp ngăn ngừa ung thư. Năm 2006, một nhóm nghiên cứu do giáo sư Yakov Weinstein và bác sĩ Rivka Ofir thuộc Đại học Ben Gurion (Negev- Israel) cho thấy trong cây sả có chất citral, một hợp chất chính có tác dụng “tiêu diệt các tế bào chết trong các tế bào gây ung thư và giữ lại tế bào bình thường. Cũng theo nghiên cứu này, nồng độ citral có trong sả cũng tương đương với một tách trà. Uống nước sả tươi làm cho tế bào ung thư tự tiêu hủy, uống một liều lượng nhỏ chừng 1g cây sả tươi chứa đủ chất dầu làm cho tế bào ung thư tự tử trong ống nghiệm. Với những người đang chữa bệnh bằng tia xạ thì mỗi ngày uống 8 ly cây sả tươi trụng với nước sôi.
Cải thiện hệ thần kinh: tinh dầu sả được sử dụng để tăng cường và cải thiện các chức năng của hệ thần kinh, thông kinh lạc. Nó hỗ trợ trong điều trị một số rối loạn của hệ thần kinh như bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson, co giật, căng thẳng, chóng mặt, run rẩy chân tay, động kinh…
Giúp tiêu hóa: trà từ cây sả và tinh dầu sả (có thể uống 3 – 4 giọt với nước đun sôi để nguội) có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa kém, ăn chậm tiêu, đầy bụng, buồn nôn, nôn mửa, kích thích trung tiện, đau dạ dày, nóng trong, co thắt ruột, tiêu chảy. Nhờ có khả năng thư giãn các cơ dạ dày, trà hoặc tinh dầu sả không chỉ giúp loại bỏ khí từ ruột, mà còn ngăn ngừa sự đầy hơi, kích thích tiêu hóa, khử hôi miệng, tiêu đờm. Uống 3 – 6 giọt tinh dầu chữa đau bụng đầy hơi.
Giải độc: ăn sả cũng có tác dụng giải độc cơ thể bằng cách tăng cường số lượng và tần suất đi tiểu (thông tiểu tiện). Điều này giúp cho gan, đường tiêu hóa, tuyến tụy, thận và bàng quang được sạch sẽ và khỏe mạnh bằng cách hỗ trợ cơ thể để loại bỏ các chất độc hại không mong muốn và acid uric qua đường tiểu bài tiết ra ngoài.
Giải độc rượu: dùng 1 bó sả giã nát, thêm nước lọc, gạn lấy 1 chén, uống hết. Người say rượu uống vào sẽ nhanh chóng tỉnh và đỡ mệt, đỡ nhức đầu.
Giảm huyết áp: bổ sung các tinh chất có trong sả sẽ có hiệu quả trong việc giảm huyết áp. Nó làm tăng tuần hoàn máu và giúp giảm bớt tất cả các vấn đề của huyết áp. Uống một ly nước trái cây có sả có thể làm giảm huyết áp đáng kể.
Giảm đau: tinh chất sả có thể làm giảm đau tất cả các loại viêm và các cơn đau nhức. Vì vậy, nếu bị đau răng, đau cơ, đau khớp hay đau ở các bộ phận khác, hãy uống trà sả vì chắc chắn nó sẽ hữu ích cho bạn.
Hỗ trợ da: chất sả là một nguyên liệu không thể thiếu trong ngành công nghiệp mỹ phẩm vì nó có rất nhiều lợi ích cho da. Tinh dầu sả cải thiện chất lượng da như giảm mụn trứng cá và mụn nhọt. Nó cũng có tác dụng làm săn chắc các cơ và các mô trong cơ thể.
Tốt cho tóc: phụ nữ thường nấu nước sả để gội đầu cho trơn tóc, sạch gầu, ít rụng tóc và có thể tránh được một số bệnh về tóc.
Trị ho do cảm lạnh, cảm cúm: củ sả 40g, gừng tươi 40g. Hai thứ rửa sạch, giã nát, nấu với 650ml nước, sôi khoảng 10 phút, bỏ bã, thêm đường vào nấu cô lại thành cao, ngậm nuốt dần trong ngày.
Trị cảm sốt do phong hàn, nhức đầu, không ra mồ hôi: lá sả, lá chanh, lá bưởi, hương nhu, húng chanh, bạc hà, ngải cứu, kinh giới… một lần dùng 4 – 6g mỗi loại nấu nước xông cho ra mồ hôi.
Giải cảm:
– Kinh giới, tía tô, trắc bách diệp, bạc hà, chanh, ngải cứu, lá tre, lá ổi (mỗi nồi dùng 5 loại lá)… đun sôi, dùng để xông giải cảm rất hiệu nghiệm.
– 15 – 30g củ sả hoặc lá tươi nấu nước xông.
– Lá sả, lá tía tô, lá kinh giới, lá ngải cứu, thêm 3 – 4 củ tỏi (thiếu một thứ cũng không được), nấu nước xông sẽ trị được nhức đầu (do thời tiết).
– Lá sả, lá tre, lá bưởi (hoặc lá chanh), lá tía tô, lá ổi, nấu nước xông, trước khi xông nên múc sẵn một chén để riêng, xông xong uống rồi đắp chăn nằm một lúc sẽ đỡ.
Giảm cảm giác buồn nôn khi có thai: củ sả băm nhỏ hãm với nước sôi uống hàng ngày.
Giải nhiệt, thông tiểu, tiêu thực: lá sả tươi 30 – 40g nấu với 1 lít nước, đun sôi khoảng 5 phút, uống.
Trị nhức đầu: lá sả, lá tía tô, lá kinh giới, lá ngải cứu với vài củ tỏi nấu nước xông.
Trị ho: rễ sả, trần bì, sinh khương, tô tử, mỗi vị 250g (4 vị này giã nát, ngâm rượu 40oC vừa đủ để được 200ml); bách bộ bỏ lõi, thái nhỏ, sao khô 500g; mạch môn bỏ lõi 300g; tang bạch bì tẩm mật, sao vàng 200g (3 vị này sắc và cô đặc lại thành 300ml cao lỏng), trộn lẫn cao lỏng và rượu thuốc, ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 10ml.
Sạch răng miệng: củ sả non rửa thật sạch, xắt nhỏ, phơi hoặc sấy khô, tán bột, mỗi lần dùng 10g, ngâm với nước nóng, dùng để súc miệng.
Trị đau răng: sắc sả lấy nước súc miệng hàng ngày.
Trị hôi nách: củ sả, giã nát, hợp với phèn phi, bôi ngày 1 lần. Dùng liên tục 7 – 10 ngày giúp cải thiện mùi hôi đáng kể.
Trị ăn uống không tiêu, đầy bụng: củ sả giã nát, ép lấy nước cốt, phối hợp với mạch nha uống.
Trị đau dạ dày, tiêu chảy do lạnh: củ sả 12g, gừng nướng sém vỏ ngoài 6 – 12g, củ riềng (sao) 12g, hương phụ (sao) 12g, sắc với 750ml nước, còn 300ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn.
Trị tiêu chảy:
– Rễ sả 10g; củ gấu, vỏ rụt, mỗi vị 8g; vỏ quít, hậu phác, mỗi vị 6g; sắc uống.
– Rễ sả 10g, búp ổi 8g, củ riềng già 8g, thái nhỏ, sao qua, sắc đặc uống.
Trị đau khớp: tinh dầu sả trộn với dầu dừa bôi vào chỗ đau hoặc sưng.
Trị phù nề chân, tiểu ít, thấp thũng: lá sả 100g, rễ cỏ xước, rễ cỏ tranh hoặc bông mã đề, mỗi thứ 50g. Rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng 3 – 4 ngày.
Trị hai chân tự nhiên phù: củ sả 12g, lá và bông mã đề 12g, sắc uống thay nước trà.
Lương y HOÀNG DUY TÂN

8/7/15

HƯ THỰC trong y hải cầu nguyên của Hải Thượng Lãn Ông



Y hải cầu nguyên / Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh
Thiên: HƯ THỰC

Tà khí mà xâm phạm vào được tất là do chính khí hư. Tà khí mà lưu lại không đi là bệnh thuộc thực. Nội kinh nói: hư là chính khí hư, thực là tà khí thực.

Chứng thực thì nói sảng, chứng hư thì nói lắp.

Phàm mọi bệnh ăn vào thì tạm yên, tất nhiên là chứng hư.

Người khỏe mạnh không có bệnh tích, người hư yếu thì có bệnh tích. ( tích o đây là tích trệ )

Thũng là chứng thực do ở huyết, phù là chứng thực do ở khí.

Chứng hư hai gò má đỏ là do âm hư ở dưới bức dương lên trên.

Bệnh ở ngoại vào phần nhiều là do chứng hữu dư, bệnh ở trong sinh ra phần nhiều là chứng bất túc.

Hữu dư là khách bệnh, bất túc là chủ bệnh.

Tổn thương do ăn uống là chứng hữu dư, tổn thương do làm lụng, nhọc mệt là chứng bất túc.

Chứng nhức đầu liên quan đến thực ( lục dâm tà khí xâm phạm, hỏa uất xong lên thì dùng phép giải biểu, thanh nhiệt ), chứng váng đầu liên quan đến hư ( nguyên dương suy yếu khiến âm hỏa bốc lên thì dùng phép trợ dương chế âm )

Tỳ hư thì sinh đi tả, vị hư thì sinh nôn mửa.

Tỳ hư thì phát nóng, vị hư thì sợ lạnh.

Bệnh ở tỳ phần nhiều là hư, bệnh ở vị phần nhiều là thực.

Hạ bộ hư thì quyết lạnh, thượng bộ hư thì choáng váng.

Cần xem xét nguồn gốc của bệnh khiến mất cân bằng cơ thể theo hướng phần nào hư ( âm, dương ) để luận hàn nhiệt cho đúng khi kê đơn thuốc.

Chứng rất thực nhưng có hiện tượng suy yếu nếu dùng lầm thuốc bổ sẽ sinh thêm bệnh. Bệnh rất hư nhưng có hiện tượng khỏe mà dùng lầm thuốc tả sẽ làm chết oan. Thà dùng lầm thuốc bổ mà bị thêm bệnh còn hơn dùng nhầm thuốc tả là hết cách chữa, ấy là ý dạy bảo của Lê Hữu Trác vậy.





7/7/15

KHÍ HUYẾT trong Y hải cầu nguyên của Hải Thượng Lãn ông


Y hải cầu nguyên ( Hải Thượng Lãn ông / Y tông tâm lĩnh ) 
Thiên:  KHÍ HUYẾT 

Khí làm hướng đạo cho huyết.

Huyết là ngọn của khí, khí là gốc của huyết.

Huyết là tinh của thủy cốc, lớp lớp hoá sinh ra, song thực tế là nó sinh hoa sở tỳ, thống quản ở Tâm, tàng trữ ở Can, gạn lọc ở Thận và tưới tắm cho toàn thân.

Thanh khí ở dưới thì sinh ra ỉa chảy, trọc khí ở trên thì sinh ra đầy trướng.

Khí không có thủy không hoá được, tinh không có khi không vận hành được.
( tuyên thông phế khí với thông điều thủy đạo là hai chủ tính của tạng phế và tạng thận liên quan đến nhau ).

Phế đưa khí ra, thận thu khí vào, cho nên phế chủ khí, thận là gốc của khí.

Khí huyết không điều hoà thì ngưng kết lại mà làm ung nhọt.

Người ta khi nằm thì huyết trở về can.

Khí không có huyết thì khí tán mà không có sự thống quản
Huyết mà không có khí thì huyết ngưng lại mà chẳng lưu thông.

Tỳ vị là cha của khí huyết, tâm thận là mẹ của khí huyết, can phế là nơi cư trú của khí huyết.

Khí huyết con người cũng nhu nguồn suối, nhiều thì chảy khắp, ít thì ưa trệ, cho nén khí thịnh thì không ứ trệ.

Vinh huyết hư thì tê dại
Vệ khí hư thi không cử động

Khí bị hư thì tê dại. huyết bị hư thì cứng đờ ( ngoài da bị đau là tê dại, trong gân không mềm dẻo là cứng đờ ).

Khí bị hư thì đau, huyết bị hư thì sưng. ( khí thuộc hỏa, hình thuộc huyết, đau thì tổn thương khí, sưng thì tổn thương huyết )

Huyết thực khí hư thì thể vóc dễ béo, khí thực huyết hư thì thể vóc dễ gầy.

Bệnh khát thường phát sinh ở huyết hư.

Trung khí không đầy đủ thì nước giải biến màu.

Khí thượng bộ không đầy đủ thi đầu ngả nghiêng, mắt bị lác.

Khí hư không liễm nạp được nguyên dương ở trung cung, huyết hư không tiếp nhận được thận hỏa ( Long hỏa ) ở hạ tiêu, đều là chứng nhiệt.

Khí thịnh mà người lạnh là do thương hàn, khí hư mà người nóng là do thương thử.

Huyết suy thì hình thể liệt yếu, huyết bại thi hình thể hủy hoại, cho nên xương cốt có chỗ nào hư yếu thì thấy ngay bại liệt một bên.

Huyết có thừa thì hay giận, huyết không đủ thi hay sợ.

Khí có thừa tức là hoả, khí không đủ tức là hàn.

Mửa thời hại khí, xổ thời hao huyết
Khí hư thì hồi hộp đánh trống ngực, huyết hư thì hay kinh sợ.

Trong huyết không có khi thì bệnh thấy buông xuôi rã rời, trong khí không có huyết thì bệnh thấy co quắp run giật.

Khí thực thì nhiệt, khí hư thì hàn.

Khí nhiều thì huyết dễ đưa lên, huyết ít thì hỏa dễ bốc  cháy.

Đại trường có huyết thì nhuận, mất huyết thì táo.

Bị mất huyết thi không có mồ hôi
Bị mất mồ hôi thì không có huyết.

Khí thoát thì mắt không sáng.

Huyết thoát thi sắc mặt trắng bợt mà không nhuần nhã. Khí hư thì sắc trắng bệch có vẻ trong và nổi gân trơ xương trông có vẻ hàn lạnh. Huyết hư thì sắc trắng khô có vẻ đục như màu thiếc, màu tro, có thể tưởng tượng là nhợt nhạt.

Khí hành thì huyết hành, dương vong thì âm cũng thoát, âm vong thì dương cũng bại.

Chính khí với tà khí không thể đứng chung nhau, phải có một thắng một bại.

Bách bệnh đều không nằm ngoài phạm vi âm dương khí huyết.













4/7/15

ÂM DƯƠNG trong Y hải cầu nguyên ( Hải Thượng Lãn Ông )

 

Y hải cầu nguyên
( sơ lược những điều căn bản ) 
Thiên thứ nhất: ÂM DƯƠNG

Dương là căn bản của sự sống
Âm là cơ sở của sự chết

Dương đạo thực âm đạo hư

Âm ở trong để giữ gìn cho dương
Dương ở ngoài để bảo vệ cho âm

Thần yên tĩnh thì âm sinh trưởng
Hình thể lao nhọc thì dương cang thịnh

Dương chứng phần nhiều hay mừng
Âm chứng phần nhiều hay giận

Dương suy không thở ra được
Âm suy không hít vào được

Dương bị bệnh thì không cúi xuống được
Âm bị bệnh thì không ngửa lên được

Dương thịnh thì trừng mắt 
Âm thịnh thì nhắm mắt

Dương thinh thì chảy máu mũi
Âm thịnh thì tiểu tiện khó đi

Bệnh dương thì đi lên, hết mức thi trở xuống
Bệnh âm thì đi xuống, hết mức lại trở lên

Dương khí không đưa lên được gọi là cách
Âm khí không giáng xuống được gọi là ế ( nghẹn )

Khí dương suy yếu phần trên thì thành hàn quyết
Khí âm suy yêu ở phần dưới thì thành nhiệt quyết

Bệnh thuộc âm phát chậm, khỏi chậm
Bệnh thuộc dương phát nhanh, khỏi nhanh

Bệnh ở phần dương thi buổi sáng yên
Bệnh về phần âm thi ban đêm yên

Chứng dương hư thì nặng về buổi tối
Chứng âm hư thì nặng về buổi mai

Dương không đầy đủ thì hàn thấp ngưng đọng
Âm không đầy đủ thì hỏa nhiệt bốc sôi

Âm hư không thắng được dương thi mạch nhanh và mạnh, dồn lại thi phát cuồng
Dương hưu không thắng được âm thì năm tạng tranh nhau mà chín khiếu chẳng thông

Dương hư sinh ngoại hàn
Âm hư sinh nội nhiệt

Dương thịnh sinh nóng ở ngoài
Âm thịnh sinh lạnh ở trong

Phát sốt sợ lạnh là chứng ở phần dương
Không sốt sợ lạnh là chứng ở phần âm

Nóng rét qua lại là âm dương tranh thắng
Dương không đầy đủ thì rét trước nóng sau
Âm không đầy đủ thì nóng trước rét sau

Dương tác hoá nhiệt, nhiệt thì hại khí 
Âm tà hoá hàn, hàn thì hại hình

Dương bốc vượt lên thi nóng tựu phát ra
Âm suy yếu sinh chứng đổ mồ hôi trộm

Khí âm lấn len vào phần dương thì sợ lạnh
Khí dương hãm xuống vào phần âm thi phát nóng

Dương sinh nhiệt, nhiệt thì nới giãn
Âm sinh hàn, hàn thi co rút

Khí dương quá thừa thì minh nóng không có mồ hôi
Khí am quá thừa thì mình rét mồ hôi ra nhiều

Âm hư cực độ thì dương phát quyết lạnh
Dương hư cực độ thì am táo

Khí âm ít, khí dương nhiều nên mình nóng đầy và bực bội
Khí dương ít, khí âm nhiều nên mình rét lạnh như ơn trong nước ra

Tự đổ mồ hôi là chưng dương hư
Đổ mồ hôi trộm là chứng âm hư

Mồ hôi nóng thuộc dương
Mồ hôi lạnh thuộc âm

Tà vào trong dương thì phát cuồng
Tà vào trong âm thì phát tê

Tà va chạm với dương thi phát điên
Tà va chạm với âm sinh ra câm

Dương nhập vào âm thì yên tĩnh
Âm xuất ra dương thì giận dữ

 Bệnh âm phát ở xương
Bệnh dương phát ở thịt

Sốt sợ lạnh, chứng từ dương
Không sốt sợ lạnh, chứng từ âm

Bệnh dương phát về mùa đông
Bệnh âm phát về mùa hè

Âm không thắng dương, mạch nhanh mạnh
Dương không thắng âm, tắc chín khiếu

Dương thiếu rét trước, nóng sau
Âm thiếu nóng trước, rét sau