26/12/15

Khẩu quyết cho hàn nhiệt


NHIỆT THƯƠNG KHÍ TẮC CỐT TIÊU CÂN HOÃN
HÀN THƯƠNG HÌNH TẮC CÂN LUYẾN CỐT THỐNG
                                   Dịch nghĩa:
Nhiệt tổn thương khí khiến xương tiêu mòn, gân lỏng lẻo
Hàn tổn thương hình khiến gân co rút xương đau đớn 

23/12/15

Cây quýt gai ( gai tầm xoọng )




Cây gai tầm xoọng có tên khác là độc lực, quýt gai, quýt rừng, cam trời. Thuộc họ Rutaceae. Cây bụi nhỏ, lá mọc so le, thân có gai dài, lá dày cứng có tinh dầu. Hoa màu trắng, quả tròn khi chín có màu đen. Toàn cây có tinh dầu thơm mùi quýt. Quả xanh chứa chất nhầy. Các bộ phận khác có vị đắng, the, mùi thơm, tính ấm, không độc. Ở nông thôn mỗi khi luộc ốc, người ta dùng gai của cây này để khêu ruột ốc. Vì loại gai này dài sắc và có độ cứng thích hợp. Toàn cây được dùng làm thuốc. Ở Trung Quốc có tên gọi tửu bính lặc.
Theo y học cổ truyền, gai tầm xoọng là vị thuốc chữa phong thấp, có trong các bài thuốc lưu truyền dân gian. Dùng toàn cây thái nhỏ sao vàng hạ thổ sắc uống. Kết quả rất tốt cho nên đã được truyền cho nhau, nó trở thành phương thuốc quý trong dân gian. Ngoài công dụng đó ra, gai tầm xoọng còn có tác dụng chữa ho, chữa rắn cắn, chữa sâu răng, làm tan được huyết bầm huyết ứ, thông hoạt kinh lạc, trừ tà, giảm đau nhức…
Theo kinh nghiệm cây này dùng tươi tốt hơn dùng khô. Có thể dùng độc vị hoặc phối hợp cùng những vị khác thành bài. Điều trị phong tê thấp thì kết hợp với tục đoạn, thổ phục linh, ngải diệp. Điều trị ho đau họng, kết hợp với cát cánh, trần bì, tang diệp. Chống viêm tiêu ứ thì kết hợp với bồ công anh, hồng hoa, tô mộc…
Theo y học cổ truyền, gai tầm xoọng là vị thuốc chữa phong thấp. Dùng toàn cây thái nhỏ sao vàng hạ thổ sắc uống. Kết quả rất tốt cho nên đã được truyền cho nhau, nó trở thành phương thuốc quý trong dân gian. 
Một số ứng dụng trên lâm sàng:
Các khớp sưng đau, đi lại khó khăn, toàn thân mệt mỏi: 
gai tầm xoọng 25g sao vàng hạ thổ, sắc uống.
 Hoặc gai tầm xoọng 16g, thổ phục linh 16g, tục đoạn 12g, ngải diệp 12g, đương quy 12g, kê huyết đằng 12g, thiên niên kiện 10g, quế 6g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần/ngày.
Cần gia giảm theo chứng trạng của người bệnh:
– Đau lâu ngày, cơ thể gầy yếu da xanh, gia đẳng sâm 16g, bạch truật 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, đại táo 12g.
– Đau ngực khó thở, gia hắc táo nhân 16g, lạc tiên 16g, hạt muồng (sao) 16g.
-Ăn uống kém, tiêu hóa trì trệ, gia bạch truật 12g, trần bì 12g, biển đậu 16g.
– Đau vai cổ, một bên cánh tay khó cử động: gai tầm xoọng sao vàng hạ thổ 20g, nam tục đoạn 20g, tang chi 12g, rễ cúc tần 12g, kinh giới 12g, quế 10g, thiên niên kiện 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Có thể kết hợp với bài thuốc chườm: ngải diệp 50g, rễ lá lốt 15g. Hai thứ sao rượu,  gói vào miếng vải, chườm tại chỗ. Khi thuốc nguội, sao lại và chườm tiếp.
Khớp gối đau nhức: có biểu hiện xơ cứng, hạn chế vận động: gai tầm xoọng sao vàng hạ thổ 20g, cát căn 16g, huyết đằng 12g, đương quy 12g, tục đoạn 12g, phòng phong 12g, tế tân 10g, quế 10g, đơn hoa 12g, chích thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Công dụng: trừ thấp giảm đau, thông kinh hoạt lạc. Nếu bệnh nhân là người cao tuổi, ít ngủ, gia hắc táo nhân 16g, hạt muồng  (sao) 12g, bạch linh 12g.
Ho hen, khó thở, đau họng mắc đờm: gai tầm xoọng (sao vàng hạ thổ) 16g, cát cánh 12g, trần bì 12g, mạch môn 12g, đại táo 6 quả, tang bạch bì 16g, hoàng kỳ 12g, mơ muối 12g, cam thảo 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Kiêng cua ốc, cá tươi, thịt gà.
Ho kéo dài do biến chứng của cảm cúm: gai tầm xoọng 16g, tế tân 12g, kinh giới 12g, mạch môn 16g, cát cánh 12g, bách bộ 12g, trần bì 12g, thục địa 12g, huyền sâm 10g, xa tiền thảo 16g, rau má 20g, lá xương sông 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Trẻ em ho gà: gai tầm xoọng (dùng lá) 6g, hoa đu đủ đực 6g, cát cánh 6g, lá tía tô 6g, trần bì 6g, tang bạch bì 6g. Đổ nước 300ml, sắc lấy 100ml, chia 3 – 4 lần cho trẻ uống trong ngày.
Ho khan do phế nhiệt: gai tầm 16g, thiên môn 12g, tang diệp 20g, xa tiền thảo 20g, lá xương sông 20g, lá đinh lăng 20g, rau má 24g, bạch linh 10g, mơ muối 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.
Phụ nữ bị bế kinh: đau bụng dữ dội, bụng dưới căng đầy, da mặt nóng nổi mụn: gai tầm xoọng (sao vàng hạ thổ) 24g, ích mẫu 16g, đương quy 12g, tô mộc 16g, trạch lan 16g, đan sâm 16g, kê huyết đằng 12g, hương phụ 12g, quế 8g.  Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Uống nóng.
Dùng trị bệnh thận hư:Thành phần:
Gai tầm xoọng : 20g, Cây mực: ………. 20g, Cây nổ: …………. 20g, Cây muối:………. 20g
Sắc với 1,5 lít nước uống trong ngày


( Nguồn: sưu tầm trên internet )

Cây thanh táo chữa gân xương


Cây thanh táo còn gọi là thuốc trặc, tần cửu, có tên khoa học Justicia gendarussa L. f. (Gendarussa vulgaris Nees), thuộc họ Ô rô - Acanthaceae. Cây thanh táo là loài cây nhỏ mọc hoang hay thường được trồng làm cảnh, làm hàng rào. Cây cao 1-1,5m. Thân cành non màu xanh hoặc tím sẫm. Lá mọc đối, hình mác hẹp, có gân chính tím, không lông. Trên mặt lá thường có những đốm vàng hoặc nâu đen do một loài nấm gây nên. Hoa mọc thành bông ở ngọn hay ở nách lá về phía ngọn bao bởi nhiều lá bắc hình sợi. Ðài 5, hợp ở gốc cao 3-5mm. Tràng màu trắng hay hồng có đốm tía, chia 2 môi. Nhị 2, bao phấn 2 ô. Quả nang hình đinh, dài 12mm. Bộ phận dùng: Toàn cây - Herba Justiciae, thường gọi là Tiểu bác cốt. Theo Đông y, cây thanh táo có vị cay, tính ấm; có tác dụng nối gân tiếp xương, tiêu sưng giảm đau. Rễ có vị hơi chua cay, tính bình có tác dụng hoạt huyết, trấn thống, làm lợi đại tiểu tiện, tán phong thấp. Vỏ rễ và vỏ thân có tác dụng gây nôn. Lá có tác dụng sát trùng. Thường được dùng trị gãy xương, sái chân, phong thấp viêm khớp xương. Rễ dùng chữa vàng da, giải độc rượu, còn trị viêm thấp khớp, bó gãy xương, trật khớp. Liều dùng 15-20g cây khô, dạng thuốc sắc. Vỏ rễ, vỏ thân sắc uống hoặc ngâm rượu uống chữa tê thấp. Rễ và cành lá có thể dùng tươi giã đắp các vết thương chỗ sưng tấy và bó gãy xương. Còn dùng tán bột rắc trừ sâu mọt. 
Sau đây là một số bài thuốc có vị thanh táo:
 - Chữa bong gân sai khớp: 
Thanh táo 20g,
 lá diễn tươi 50g; 
cốt toái bổ, 
xuyên tiêu, mần tưới mỗi vị 20g.
 Sắc uống lúc còn ấm, mỗi ngày 1 thang. 
Bên ngoài dùng lá thanh táo, lá ngải cứu, lá diễn dùng tươi, lượng bằng nhau. Giã nhỏ đắp ngày 2 lần. 
- Chữa ho, sốt, mồ hôi trộm: 
Rễ thanh táo, miếp giáp, địa cốt bì, sài hồ mỗi vị 10g;
 đương quy, tri mẫu mỗi vị 5g;
 thanh tao, ô mai mỗi vị 4g. 
Sắc uống trong ngày. 
- Viêm tinh hoàn (dái sưng đau, một bên sa xuống):
 Rễ thanh táo, rễ sưng, rễ bấn trắng, rễ vạy đỏ, mỗi vị một nắm, sắc uống. 
- Chữa sản phụ máu xấu đưa lên choáng váng, mắt mờ: 
Thanh táo, mần tưới, cỏ màn chầu, mỗi vị 20g, sắc uống. 
- Chữa phong thấp, tay chân tê bại: 
Rễ thanh táo, dây chiều, rễ hoàng lực, rễ gai tầm xoọng, mỗi vị 20g; 
cốt khí củ, thiên niên kiện mỗi vị 10g. 
Sắc uống ngày 1 thang. 
- Chữa vết lở, vết thương nhiễm độc chảy máu không dứt hay nhọt lở thối loét, khó kéo miệng: 
Lá thanh táo và lá mỏ quạ lượng bằng nhau, rửa với nước muối, giã nhỏ, đắp rịt, thay thuốc hằng ngày. 
Trong uống nước sắc bạch chỉ nam, kim ngân hoa, bồ công anh, mỗi vị 1 nắm và ăn rau sống hằng ngày,
 sau một tuần lễ sẽ có kết quả. 
Chú ý, cây thanh táo có độc nhẹ, người bệnh nên tham khảo ý kiến của các lương y danh tiếng.... 
Đọc thêm tại: http://nongnghiep.vn/thanh-tao-noi-gan-tiep-xuong-nhung-doc-nhe-post138119.html | NongNghiep.vn


22/12/15

Bàn về pháp " Hư thì bổ mẹ, thực thì tả con "


DN:Các bác cho hỏi nguyên tắc chữa bệnh " hư thì bổ mẹ thực thì tả con". Tại sao phải theo nguyên tắc này ạ. Sao ko tả và bổ trực tiếp luôn
 YHCTXL: Lên google cho nó cặn kẽ
DN: Ko có bác ah. E tìm rồi
YHCTXL: Nói một cách dễ hiểu
Hư có nghĩa là thếu hụt cần phải bổ sung
Thực có nghĩa là thừa cần phải bỏ bớt (tả)
 TMH: Con mà hư nếu bổ chắc khó vực dậy ( do nó đang hư ) vậy dùng cách bổ mẹ để dẫn sự nuôi dưỡng từ mẹ sang con sẽ đạt kết quả tốt hơn. Thực thì tả con tức là lúc đó mẹ thực, khi mẹ thực thì cái sinh dưỡng sẽ mạnh mẽ khiến con sẽ cũng bị thái quá theo, pháp chữa ở đây ko đánh ( tả ) vào mẹ mà lại tả con là để tránh can thiệp không đáng vào mẹ, đồng thời giảm bớt sự thái quá ở con mà tự mẹ sẽ bớt cái thực đi.
DN: Bác lý giải bổ mẹ thấy dễ hiểu. tả con thì cháu thấy rất có lý nhưng ko hiểu sao cháu thấy vấn đề tả con như vậy thì vẫn gượng ép
TMH: Đấy là pháp tránh tả vào tạng phủ đang có vấn đề mà, tả con của nó để tự kéo rút cái vấn đề của mẹ nó. Ví dụ tạng can hỏa vượng nó sẽ thúc đẩy Tâm sinh hỏa thì pháp chữa là tả cái hỏa ở tạng Tâm, pháp này sẽ kéo theo hỏa của tạng can sẽ được rút bớt. Đại khái luận nôm na là vậy, mời các lương y chỉ giáo !
DN: trong bổ mẹ có bao giờ xuất hiện trường hợp con thì hết hư nhưng mẹ lại do bổ mà thành thực không bác
 DN:cháu chợt có ý nghĩ thế này: Phải chăng cơ thể con người vốn là âm dương ngũ hành cân bằng. Khi có bệnh tức là mất cân bằng, cơ thể vốn dĩ có khả năng tự điều chỉnh để cân bằng lại. Vai trò của người thầy thuốc là thúc đẩy, hỗ trợ sự điều chỉnh đó. Vìvậy nguyên tắc "hư thì bổ mẹ thực thì tả con" cũng như " lấy âm dẫn dương, lấy dương dẫn âm".. đều không can thiệp trực tiếp vào nơi bị bệnh vì nó vốn dĩ yếu rồi, ta sẽ can thiệp vào nơi khác để dẫn dắt giúp đỡ cơ thể tự hồi phục lại.
TMH: Đó là cái khoa học mà rất nhân văn của y lý đông y
TMH: Còn bổ quá khiến mẹ lại thành thực thì có lé cái này lại liên quan đến nhiều vấn đề vì cái gì thái quá đều ko tốt, vậy nên cần phải theo dõi bn để điều chỉnh phương thang cho phù hợp với tiến triển bệnh tật. Mình cũng nghĩ nôm na mà viết vậy thôi.

16/12/15

Học thuyết thiên nhân hợp nhất

( Trích bài giảng lý luận y học cổ truyền - trường đại học y Hà Nội )
ĐỊNH NHĨA
Học thuyết thiên nhân hợp nhất nói lên giữa con người và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội luôn luôn có mâu thuẫn và thống nhất với nhau. Con người thích nghi, chế ngự thiên nhiên và xã hội sẽ sinh tồn và phát triển.
Trong đông y học người xưa đã áp dụng học thuyết này để làm kim chỉ nam cho các phương pháp dưỡng sinh, phòng bệnh, giữ gìn sức khỏe, tìm ra nguyên nhân sinh bệnh và đề ra phương pháp chữa bệnh một cách toàn diện.

NHÂN TỐ TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI

1/ Hoàn cảnh tự nhiên: ( khí hậu + thời tiết + địa lý + tập quán sinh hoạt )
- Khí hậu, thời tiết: đề cập đến lục khí ( phong - hàn - thử - thấp - táo - hỏa ) trong 4 mùa ( xuân - hạ - thu - đông )
- Vị trí địa lý: đồng bằng, miền núi, trung du, miền nam, miền bắc ...
- Tập quán sinh hoạt: phong tục, tín ngưỡng, món ăn truyền thống, cách thức lao động sản xuất, cách nuôi dạy con cái, định canh, du canh du cư, ... Ảnh hưởng tới từng con người trong xã hội.

2/ Hoàn cảnh xã hội: ( chính trị + kinh tế + văn hóa xã hội )
- Chính trị: có phân chia giai cấp, tàn dư xã hội cũ, tranh giành quyền lực, đảng phái ảnh hưởng tới cuộc sống của từng con người, từng cộng đồng và đất nước.
- Kinh tế: điều kiện kinh tế giàu, nghèo, mức sống cao thấp ....
- Văn hóa: các tập tục, tư tưởng, môi trường sống trong gia đình ... ảnh hưởng đến cuộc sống và tư duy của con người.
Các yếu tố trên gây ra các tác nhân ảnh hưởng tới tâm lý xã hội, là nguyên nhân gây ra các chứng bệnh thuộc nội thương tình chí, bệnh về thể chất, cơ thể ...

CON NGƯỜI LUÔN THÍCH ỨNG VỚI HOÀN CẢNH TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Thời tiết, khí hậu, địa lý, tập quán, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội luôn ảnh hưởng tới cuộc sống và sức khỏe cũng như tinh thần con người, có thể theo su hướng có lợi hoặc có hại cho sức khỏe con người. Con người cần thích nghi với hoàn cảnh, chế ngự và cải tạo tự nhiên, xã hội để sinh tồn và phát triển. 
Muốn vậy con người cần có sức khỏe, tinh thần thoải mái, vững vàng. Chính khí dồi dào, cơ năng thích ứng của cơ thể với môi trường luôn luôn tạo quân bình ( cân bằng ) giữa các mặt âm, dương, khí huyết, tinh thần, tân dịch ...

ỨNG DỤNG TRONG Y HỌC

1/ HTTNHN chỉ đạo phòng bệnh chủ động: 
- Cải tạo thiên nhiên để phục vụ đời sống con người một cách khoa học, đảm bảo môi trường cân bằng, hữu ích
- Chủ động rèn luyện cơ thể: thể dục, thể hao, dưỡng sinh, khí công, thiền ...
- Điều hòa Tâm tính, rèn Tâm, sửa tính cho hài hòa với môi trường xã hội
- Cải tạo, thay đổi hoặc hủy bỏ những tập quán lạc hậu, hủ lậu ... Xây dựng nếp sống văn minh, hiện đại.

2/ HTTNHN chỉ đạo phòng bệnh thụ động
- Ăn uống sinh hoạt điều độ
- Giữ gìn vệ sinh cá nhân 
- Sinh hoạt, lao động phù hợp vối sức khỏe, tuổi tác

3/ HTTNHN chỉ đạo nội dung của nguyên nhân sinh bệnh và vai trò của cơ thể với việc phát sinh bệnh:
- Trong tự nhiên có lục khí ( phong hàn thử thấp táo hỏa ) là nguyên nhân gây ra các bệnh ngoại cảm, khi trở thành tác nhân bệnh lục khí gọi là lục tà hay lục dâm.
- Trong xã hội con người có gây ra những yếu tố và tâm lý gọi là thất tình chí ( vui giận buồn lo nghĩ kinh sợ ) là nguyên nhân gây ra các bệnh nội thương.
- Con người là thực thể sống trong môi trường tự nhiên và xã hội luôn có khả năng để cân bằng với những thay đổi của môi trường sống, trường hợp tự bản thân cơ thể có những chuyển biến không tốt sẽ bị các tác nhân từ môi trường xâm phạm và sinh bệnh. Thường gọi là chính khí hư thì tà khí xâm phạm. 

4/ HTTNHN chỉ đạo nội dung, phương pháp chữa bệnh một cách toàn diện:
Kết hợp tất cả các phương pháp, cách thức lấy lại quân bình, bình hòa giữa nội bộ cơ thể con người và con người với môi trường xung quanh ( tự nhiên và xã hội )
- Nâng cao chính khí
- Tâm lý liệu pháp
- Dự phòng điều trị: Dưỡng sinh, khí công, thiền, thái cực quyền ...
- Ăn uống, bổi dưỡng, thực dưỡng 
- Dùng thuốc đông dược, tây dược,
- Châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, diện chẩn, khí công y đạo ...
Thường chú trọng nâng cao chính khí của cơ thể ( bổ phần hư yếu ) rồi mới đến tấn công vào tác nhân gây bệnh.


13/12/15

Cà gai leo


Link: http://tuelinh.vn/ca-gai-leo-155
Cà gai leo
1- Tên khác:
Cà vạnh, Cà cườm, Cà quánh, Cà quýnh.
2- Tên khoa học:
 Solanum hainanense hoặc Solanum procumbens Lour., họ Cà (Solanaceae).
 Cây mọc hoang nhiều nơi trong nước ta.
3- Bộ phận dùng:
Rễ (Thích gia căn), dây (Thích gia đằng)
4- Thành phần hoá học chính:
Rễ có alcaloid, tinh bột, flavonoid. Dây có alcaloid.
5- Công dụng:
Cây được dùng trị phong thấp, sâu răng, đau nhức các đầu gân xương, cảm cúm, ho, ho gà, dị ứng. Còn dùng trị rắn độc cắn, giải độc rượu, bia, chống say tàu xe.
Hiện nay Cà gai leo đã được nghiên cứu và chứng minh có tác dụng điều trị viêm gan do virus, xơ gan và ung thư gan.
6- Cách dùng, liều lượng:
Ngày dùng 16-20g dưới dạng thuốc sắc.
7- Một số đề tài nghiên cứu về cây cà gai leo
Cà gai leo được PGS.TS Phạm Kim Mãn, TS Nguyễn Thị Minh Khai – Viện dược liệu trung ương nghiên cứu từ những năm đầu của thập kỷ 90. Viện Dược liệu TW đã có 2 đề tài cấp nhà nước, 4 luận án tiến sỹ, nhiều luận văn nghiên cứu về Cà gai leo.

Trong báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước “Điều trị hỗ trợ bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính thể hoạt động” bằng thuốc từ  Cà gai leo do viện dược liệu trung ương chủ trì đã đi đến kết luận: Thuốc từ cà gai leo có tác dụng giảm nhanh các triệu chứng lâm sàng (mệt mỏi, đau tức hạ sườn phải, nước tiểu vàng, da và niêm mạc vàng); men gan (transaminase) và billirubin về bình thường nhanh hơn các nhóm chứng; sau điều trị những biến đổi các marker của siêu vi viêm gan B là rõ rệt tại các bệnh viện 103, 108, 354. Tỷ lệ âm tính với HBsAg đạt 23,3%, chuyển đảo huyết thanh 37,8%; 62,9% có HBVDNA < 5 copies/ml. Thuốc không gây một tác dụng ngoại ý nào trên lâm sàng và xét nghiệm. Các kết quả từ những nghiên cứu đều đi đến một kết luận Cà gai leo chính là đối trọng của Viêm gan siêu vi và là dược liệu có tác dụng làm âm tính siêu vi mạnh nhất hiện nay.

Đề tài cấp Nhà nước KHCN 1105 “Nghiên cứu thuốc từ cà gai leo làm thuốc chống viêm và ức chế sự phát triển của xơ gan” do TS. Nguyễn Thị Minh Khai cũng được nghiệm thu đạt loại xuất sắc.

Theo kết quả nghiên cứu: Cà gai leo có tác dụng chống viêm và ức chê sinh tổng hợp colagen ở một số tổ chức mô liên kết.

Luận án do Nguyễn Thị Bích thu thực hiện cũng kết luận: dạng chiết toàn phần của Cà gai leo làm giảm trọng lượng u trên mô hình u thực nghiệm 42,2% và làm giảm hàm lượng colagen gan trên mô hình xơ gan là 27,0%. Kết quả đã chứng minh glycoalcaloid là hoạt chất chính có tác dụng ức chế sư phát triển của xơ gan, chống viêm, bảo vệ gan trong cao toàn phần của cà gai leo. Đã nghiên cứu phát hiện những tác dụng dược lý mới của Cà gai leo như tác dụng trên hệ miễn dịch, trên tế bào ung thư cũng như thử tác dụng trên gen gây ung thư của virus và gen ức chế ung thư P53 và Rb. Cho đến thời điểm này Cà gai leo là dược liệu duy nhất được chứng minh là kìm hãm và ngăn chặn xơ gan phát triển.

Cây thuốc nam trên sân thượng ngày 11.12.2015

 Cây lược vàng 

 Cà gai leo

 Phèn đen và dạ ngọc minh châu

 Cây dành dành 

Cây hoa hòe 

10/12/15

Pháp chữa Tâm bệnh theo danh y Tuệ Tĩnh


Pháp chữa Tâm bệnh theo danh y Tuệ Tĩnh
Tuệ Tĩnh gọi là phép chữa bệnh tình chí
1/ Lo nghĩ, ưu tư quá sinh bệnh lấy giận mà chữa
2/ Mừng vui quá sinh bệnh lấy sợ hãi mà chữa
3/ Tức giận sinh bệnh lấy thương xót mà chữa
4/ Lo lắng sinh bệnh thì lấy mừng vui mà chữa
5/ Sợ quá sinh bệnh lấy lo nghĩ mà chữa
6/ Lo nghĩ sinh bệnh lấy sợ mà chữa
7/ Thương nhớ quá sinh bệnh lấy ghét mà chữa

7/12/15

Bạch hoa xà thiệt thảo


Bạch hoa xà thiệt thảo tuy là vị thuốc mới được biết đến nhưng thường có mặt trong các bài thuốc giải độc, chữa bệnh về gan.
1. Mô tả:
Bạch hoa xà thiệt thảo, còn gọi với nhiều tên khác như xà thiệt thảo, mục mục sinh châu thảo, dương tu thảo, xà châm thảo, bạch hoa thập tự thảo, dịch kinh thảo, nam địa châu, tán thảo, trúc diệp thảo...
Trong cuốn "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam", GS Đỗ Tất Lợi gọi loại cỏ này là cây lưỡi rắn, tên khoa học là Oldenlandia diffusa (Willd).
Ở Trung Quốc, cây này mọc nhiều ở các vùng tây nam và đông nam, được thu hái vào mùa hè và mùa thu. Ở Việt Nam, GS Đỗ Tất Lợi cho rằng cây này được tìm thấy nhiều ở các đường ray tàu hỏa hoặc những nơi ẩm thấp.
Bach hoa xà thiệt thảo là loài cỏ nhỏ, mọc bò lan sống hàng năm. Thân màu nâu nhạt, tròn ở gốc, thân non có bốn cạnh, mang rất nhiều cành.
Lá hình mác thuôn, dài khoảng 1,5 – 3,5 cm, rộng 1 – 2 mm, nhọn ở đầu, màu xám, dai, gần như không có cuống, lá kèm khía răng cưa ở đỉnh. Hoa mọc đơn độc, hoặc từng đôi ở nách lá.
Hoa nhỏ có 4 lá đài hình giáo nhọn, ống đài hình cầu. Tràng gồm 4 cánh hoa, 4 nhị dính ở họng ống tràng. Quả bế, bầu hạ, còn đài, hình cầu hơi dẹt ở 2 dầu, bên trong có chứa nhiều hạt nhỏ, có góc cạnh.
2. Tác dụng dược lý

KHOA ĐÔNG Y, BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG QUÂN ĐỘI 108
THẠC SỸ - BÁC SỸ HOÀNG KHÁNH TOÀN
Theo Đông y, bạch hoa xà thiệt thảo có vị ngọt, nhạt, hơi đắng, tính mát, không độc, đi vào 3 kinh tâm, can và tỳ. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc. Dùng để trị chứng ho do phế nhiệt, viêm họng, viêm ruột thừa, kiết lỵ, sốt cao, hoàng đản, viêm khoang bụng, các chứng ung nhọt, rắn cắn...
Cũng theo BS Hoàng Khánh Toàn, bạch hoa xà thiệt thảo có những tác dụng dược lý như sau:
- Kháng khuẩn tiêu viêm:
Trên thực nghiệm ngoài cơ thể tác dụng không rõ ràng, riêng với tụ cầu vàng và trực khuẩn lỵ có khả năng ức chế nhẹ nhưng với nồng độ dịch chiết cao có thể ức chế được cả trực khuẩn mủ xanh và thương hàn.
Trên thỏ thực nghiệm gây viêm ruột thừa, bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng phát huy khả năng chống viêm, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống võng mạc nội mô và hoạt lực của đại thực bào.

- Cải thiện công năng miễn dịch của cơ thể:
Nghiên cứu thực nghiệm trên chuột cho thấy bạch hoa xà thiệt thảo có thể tăng cường năng lực hoạt động của ConA và LPS đối với phản ứng tăng sinh của tế bào lách, nâng cao năng lực hoạt động của tế bào lympho T và B.
- Chống ung thư:
Nghiên cứu trong ống nghiệm cho thấy bạch hoa xà thiệt thảo có khả năng ức chế tế bào ung thư, nhất là ung thư máu, nhưng trên cơ thể động vật thì tỏ ra không có phản ứng rõ rệt.
Các nhà nghiên cứu cho rằng tác dụng này của bạch hoa xà thiệt thảo mang tính không đặc hiệu.
- Tác dụng chống viêm gan và công năng tương tự như corticoid.
3. Tác dụng giải độc, chữa bệnh về gan:
Bạch hoa xà thiệt thảo tuy là vị thuốc mới được biết đến nhưng thường có mặt trong các bài thuốc giải độc, chữa bệnh về gan.
Trong cuốn "Dược học cổ truyền" do Bộ môn Dược học cổ truyền, trường Đại học Dược Hà Nội biên soạn có xếp loại cỏ này vào nhóm thảo dược giải độc.
Nghiên cứu còn cho thấy bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh lý gan mật liên quan đến virut viêm gan B.
Theo BS Hoàng Khánh Toàn, các nhà nghiên cứu thuộc Viện y học Hồ Nam số 2 (Trung Quốc) đã dùng bạch hoa xà thiệt thảo 312,5g, hạ khô thảo 312,5g, cam thảo 156,25g chế thành 500ml siro, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 25ml, liệu trình trị liệu 28 ngày.
Chiết xuất này dùng để chữa cho 72 bệnh nhân bị viêm gan cấp tính thể hoàng đản, đạt kết quả khỏi 45 bệnh nhân (62,5%), có hiệu quả 100%.
Các bài thuốc sử dụng bạch hoa xà thiệt thảo để phòng và chữa bệnh về gan như sau:
- Bài thuốc trị viêm gan, vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 40g, hạ khô thảo 40g, cam thảo 16g. Ba thứ rửa sạch, sắc lấy nước đặc, chế thành xi rô để uống trong ngày. 
- Bài thuốc bảo vệ gan, lợi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo, Hạ khô thảo, Cam thảo tỉ lệ 2 - 2 - 1 sắc uống.